Để các siêu đô thị Việt Nam trở thành các cực tăng trưởng kinh tế bền vững

Thứ tư, 09/11/2022 14:54
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

Cách tiếp cận mới nhất về đô thị hóa dựa trên hai khái niệm then chốt và theo đó, có thể đổi mới tư duy đô thị hóa trên phạm vi toàn cầu: 1, Mức độ đô thị hóa, và  2, Đổi mới các khu vực chức năng, để đô thị là động lực phát triển nền kinh tế quốc dân. Điều đó cho thấy các xu hướng đô thị hóa gần đây và tương lai, phải vừa tăng chất lượng sống đô thị, đồng thời chuyển hóa để đô thị là nơi phản ánh mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và hệ thống cư trú đô thị một cách bền vững (Báo cáo chính sách đô thị 2018-OECD).

Như vậy có thể định nghĩa “Đô thị hóa kiểu mới” như sau: Là hiện tượng xã hội liên quan tới những dịch chuyển kinh tế - xã hội - văn hóa - không gian - môi trường sâu sắc gắn với các cuộc cách mạng công nghiệp và trí thức, tạo đà thúc đẩy sự phân công xã hội, chuyển đổi và hình thành các nghề nghiệp mới, tạo ra nhu cầu dịch cư vào các trung tâm đô thị lớn và là động lực để tăng trưởng kinh tế, làm điểm tựa cho các thay đổi bộ mặt xã hội. Đô thị hóa kiểu mới tạo sự cân bằng động giữa môi trường xây dựng, môi trường kinh tế- xã hội và môi trường tự nhiên để xây dựng đô thị thông minh, bền vững và chống chịu biến đổi khí hậu”. Một số luận điểm sau khẳng định đô thị cần trở thành những cực tăng trưởng kinh tế để phát triển xã hội.

Đô thị, đặc biệt các đô thị cực lớn, cũng đồng thời là: Một không gian vật thể; Một không gian kinh tế mạnh: Bởi tính tập trung kinh tế mật độ cao ở đô thị, tức là một tập hợp các cơ sở sản xuất ở cả các khu vực kinh tế chính thức (và cả phi chính thức). Người ta thường đặt câu hỏi: Đâu là động cơ dẫn đến sự bùng nổ đô thị hóa như vậy? Ở hầu hết các khu vực trên thế giới, đô thị hóa luôn luôn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tính trung bình, khoảng 75% các hoạt động sản xuất kinh tế trên toàn cầu diễn ra tại các đô thị, và tỷ lệ này đang gia tăng nhanh chóng ở các nước đang phát triển (Ngân hàng Thế giới 2009). Ở nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ đóng góp của khu vực đô thị vào GDP quốc gia đã vượt quá 60% (Ngân hàng Thế giới 2009) và tại Việt Nam là khoảng 70% chủ yếu ở 2 thành phố cực lớn là Hà Nội và TP.HCM.

Các đô thị trở thành cực tăng trưởng: Lý thuyết về cực tăng trưởng đô thị xuất hiện vào khoảng những năm 1990 - 2000, chỉ rõ các liên kết hiện đại hoá với các lĩnh vực khác nhau trong lãnh thổ đô thị và cả vùng đô thị. Cực tăng trưởng được thiết lập sẽ tạo ra các điều kiện cần thiết mang lại sự đổi mới trong toàn bộ vùng lãnh thổ. Lý thuyết về cực tăng trưởng đã phát triển về mặt lý luận về hệ thống đổi mới và mạng lưới như là những gì mà nó tác động cả về tính đổi mới và tính cạnh tranh của các đô thị và lãnh thổ (Andreosso-O’Callaghan và Nenihan, 2008; Wojnicka, 2004). Nó có những đặc điểm rất cụ thể: Từ việc tối thiểu hoá chi phí giao dịch và sự chuyển giao một mạng lưới có thể mang lại khả năng nâng cao hiệu suất tăng trưởng vùng và hệ thống đô thị trong vùng.

Những năm 2015 đến nay, sự xuất hiện của các cực tăng trưởng bằng cách nhấn mạnh các doanh nghiệp sáng tạo, các ngành mũi nhọn, các ngành công nghiệp phụ trợ, và mối quan hệ giữa các ngành trong kết nối và lan tỏa vùng chính là  vai trò của sự đổi mới mô hình phát triển.  Chính vì vậy, các nhà đô thị học đang nhắm vào các hình thái kinh tế giá trị gia tăng cao trong các siêu đô thị trên 10 triệu dân như Hà Nội và TP.HCM để chuyển đổi mô hình kinh tế mới.

Bài viết này điểm qua một số loại hình kinh tế như vậy để góp phần thay đổi bộ mặt cho đô thị VN tương lai gần:

1- Kinh tế đám đông

Epi Ludvik Nekaj (2017) đưa ra lập luận rằng, tất cả những tương tác trong một nền kinh tế chia sẻ (sharing economy) không chỉ là chia sẻ hay cộng tác mà nằm dưới một khái niệm bao hàm hơn do con người trợ lực được gọi là nền kinh tế đám đông. Kinh tế học dân chủ mới đã phát triển với một số định nghĩa khác nhau mà Rachel Botsman (2013):

+ Kinh tế chia sẻ: Mô hình kinh tế chia sẻ các nguồn lực chưa được sử dụng.

+ Kinh tế ngang hàng: Thị trường giao dịch giữa người với người tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ và giao dịch trực tiếp các tài sản được xây dựng trên sự tin tưởng ngang hàng.

+ Tiêu dùng hợp tác: Một mô hình kinh tế dựa trên chia sẻ, hoán đổi, mua bán hoặc cho thuê các sản phẩm và dịch vụ, cho phép truy cập qua quyền sở hữu.

+ Nền kinh tế hợp tác: Nền kinh tế được xây dựng trên mạng lưới phân tán của các cá nhân và cộng đồng được kết nối với các thể chế tập trung, biến đổi cách chúng ta có thể sản xuất, tiêu dùng, tài chính và học hỏi.

Những định nghĩa này chắc chắn phù hợp với nhiều mô hình kinh tế học mới đã trở nên phổ biến trong khoảng 5 - 8 năm qua, nhưng một thuật ngữ mạnh mẽ hơn bao hàm bản chất dân chủ của tư duy được trình bày trong thuật ngữ “nền kinh tế đám đông”. Các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế đám đông được neo vào nguồn cung ứng cộng đồng. Đó là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố, như đám đông có mạng lưới, tập hợp tư duy dân chủ, tự nhận thức, các vấn đề theo cấp số nhân cần hành động tập thể và những tiến bộ công nghệ đã biến nền kinh tế đám đông thành một hệ sinh thái có giá trị và có mục đích hơn. Điều rất quan trọng là phải neo mình vào các nguyên tắc cơ bản thực sự của nguồn cung ứng cộng đồng, để tối đa hóa các cơ hội của nền kinh tế đám đông. Nền kinh tế đám đông rộng lớn được đặc trưng bởi năm nguyên tắc cơ bản - con người, mục đích, nền tảng, tham dựhiệu quả (còn gọi là nguyên tắc 5P).


Hình 1: Các nguyên tắc cơ bản của kinh tế đám đông.

+ Nguyên tắc con người (people): Nền kinh tế đám đông đang trao quyền, bao trùm, đột phá và lấy con người làm trung tâm. Các giá trị lấy con người làm trung tâm cần được đưa vào các ứng dụng hướng tới nền kinh tế đám đông mà cộng đồng là điểm xuất phát. Nền kinh tế đám đông hay hành động tập thể không phải là về hành vi của đám đông mà là các giải pháp hợp tác có mục tiêu nhằm giúp cộng đồng cải thiện cuộc sống của họ. Các nền tảng do con người hỗ trợ đang giả mạo các kết nối này giữa những người dùng đang phá vỡ rào cản giữa người sáng tạo, nhà sản xuất và người dùng cuối. Bằng cách trao quyền cho mọi người, các tổ chức đang tìm ra những con đường và giải pháp mới, chưa từng được hình dung trước đây cho các vấn đề phức tạp.

+ Nguyên tắc mục đích (purpose): Nền kinh tế đám đông tạo ra những trải nghiệm có ý nghĩa và giá trị được chia sẻ. Nền kinh tế đám đông là hiện thân của văn hóa tạo ra giá trị chung và trách nhiệm xã hội, khác biệt với lối suy nghĩ và thực hành một chiều truyền thống của nền kinh tế cũ. Các sáng kiến do con người thúc đẩy thường thể hiện một sứ mệnh lớn hơn là tạo ra các giải pháp phù hợp với và với tất cả các bên liên quan. Có nhiều hơn một kênh giao tiếp và quan niệm rằng mọi người có thể xa hơn mục đích của mình là thay đổi cuộc sống.

+ Nguyên tắc nền tảng (platform): Đám đông cần một phương tiện để tương tác và tạo ra kết quả. Trụ cột của nền kinh tế đám đông này đã thể hiện dưới dạng công nghệ, kết nối và mạng di động. Chẳng bao lâu nữa, internet kết nối vạn vật (IoT) góp phần vào phương tiện này, khuếch đại các tương tác của con người với dữ liệu mạnh mẽ. Các nền tảng như Airbnb và Uber đã trở thành đồng nghĩa với các thị trường ngang hàng và dẫn đến việc hình thành các mô hình kinh doanh mới.

+ Nguyên tắc tham dự (participation): Đồng sáng tạo và tham dự được nhấn mạnh trong nền kinh tế đám đông và cộng đồng đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tương lai tích cực. Sức mạnh của sự tham dự để thúc đẩy sự đổi mới được nhìn thấy rõ nhất thông qua huy động vốn từ cộng đồng, điều này đã cho phép các ý tưởng ban đầu có được bước khởi đầu. Phán quyết của đám đông là rất quan trọng để xác thực các kế hoạch và ý tưởng kinh doanh và làm việc với chúng chỉ mang lại hỗ trợ tài chính mà còn đánh giá cao quá trình đầu vào và lặp lại sản phẩm.

+ Nguyên tắc hiệu quả (productivity): Nền kinh tế đám đông thúc đẩy các quy trình nhanh hơn, rẻ hơn, tốt hơn và hiệu quả hơn về tài nguyên. Các ứng dụng đám đông kỹ thuật số cho các hoạt động dân sự, cứu trợ thảm họa và công tác nhân đạo đang tạo ra tác động rộng rãi. Giúp đỡ và tham gia đến với chúng tôi một cách tự nhiên và web nối mạng đã chắp cánh cho tư duy này.

Từ đó, Nekaj đi đến định nghĩa nền kinh tế đám đông là một hệ sinh thái năng động bao gồm những người làm việc hiệu quả tham gia thông qua một nền tảng với mục đích đạt được các mục tiêu cùng có lợi.

Peter H. Diamandis (2020) đã đề xuất 7 mô hình kinh doanh sẽ thống trị thập niên tới, trong đó có nền kinh tế đám đông. Ông định nghĩa nền kinh tế đám đông là nguồn lực cộng đồng, huy động vốn từ cộng đồng, phát hành tiền mã hóa lần đầu (ICO), tài sản đòn bẩy và nhân viên theo yêu cầu - về cơ bản, tất cả những phát triển thúc đẩy hàng tỷ người đã và đang trực tuyến[1].  

Tất cả đã cách mạng hóa cách chúng ta kinh doanh. Chỉ cần xem xét các tài sản có đòn bẩy, như xe của Uber và phòng của Airbnb, những tài sản này đã cho phép các công ty mở rộng quy mô với tốc độ nhanh. Các mô hình kinh tế đám đông này cũng dựa trên việc cung cấp nhân viên theo yêu cầu, cung cấp cho công ty sự nhanh nhẹn cần thiết để thích ứng với môi trường thay đổi nhanh chóng. Và đó là tất cả mọi thứ từ những người đảm nhiệm những công việc lao động vi mô đằng sau Amazon’s Mechanical Turk ở cấp thấp, đến các dịch vụ theo yêu cầu của nhà khoa học dữ liệu của Kaggle ở cấp cao.


Hình 2: 14 thành tố định nghĩa kinh tế đám đông.

Hình 3: Mô hình kinh doanh của Airbnb.

Ví dụ điển hình nhất là Airbnb đã trở thành “chuỗi khách sạn” lớn nhất trên thế giới, nhưng nó không sở hữu một phòng khách sạn nào. Thay vào đó, nó tận dụng (nghĩa là cho thuê) tài sản (phòng ngủ dự phòng) của đám đông, với hơn 6 triệu phòng, căn hộ và nhà ở tại hơn 81.000 thành phố trên toàn cầu.

2- Kinh tế đêm

Hiệp hội chính quyền địa phương Anh (Local Government Association) định nghĩa “thuật ngữ kinh tế ban đêm được sử dụng để mô tả một loạt các hoạt động từ một chuyến đi đến rạp hát hoặc một bữa ăn gia đình đến một đêm đi chơi ở câu lạc bộ. Nền kinh tế hoạt động vào ban đêm là một phần quan trọng của các thị trấn và thành phố của chúng tôi và ước tính mang lại hơn 60 tỷ bảng Anh cho nền kinh tế Vương quốc Anh mỗi năm”[2].

Ở Anh, “nền kinh tế đêm” được định nghĩa là các ngành Công nghiệp Tiêu chuẩn Phân loại 2007 (SIC 2007): Hoạt động văn hóa và giải trí; các hoạt động hỗ trợ các hoạt động văn hóa và giải trí vào ban đêm; các dịch vụ xã hội cá nhân và sức khỏe 24 giờ; các hoạt động hỗ trợ các hoạt động kinh tế và xã hội rộng lớn hơn.

Alessia Cibin (2021) quan niệm kinh tế đêm diễn ra trong một không gian thời gian đầy tranh cãi và gây tranh cãi, nơi nhiều nền kinh tế chính thức và không chính thức hoạt động từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng tương ứng với các cách trải nghiệm đêm đô thị khác nhau. Ví dụ bao gồm các bữa tiệc không chính thức, lĩnh vực nhạc sống, lĩnh vực khách sạn, ngành công nghiệp tình dục, lễ hội, nền tảng phân phối đồ ăn và rượu, sự kiện kỹ thuật số, giao dịch 24h, các doanh nghiệp kinh doanh ban đêm vừa và nhỏ, các doanh nghiệp kinh doanh đêm theo định hướng thương mại và quy mô lớn.

Kinh tế đêm bao hàm các hoạt động như: (1) Ăn uống - nhà hàng, quán cà phê, đồ ăn mang đi; (2) Uống rượu - quán rượu và quán bar; (3) Văn hóa và giải trí - nhà hát, rạp chiếu phim, nhạc sống và sự kiện hài kịch, bowling, trượt băng; (4) Các môn thể thao dành cho khán giả bao gồm bóng đá, bóng bầu dục và đua chó săn thường diễn ra vào buổi tối, đặc biệt là trong các ngày từ thứ Hai đến thứ Sáu; (5) Chăm sóc sức khỏe, cảnh sát và cứu hỏa…

+ Ưu điểm của kinh tế đêm: Giải trí cho mọi người, thường được chào đón sau khi kết thúc công việc trong ngày; tăng việc làm do chi tiêu địa phương; giảm sự loại trừ xã hội và tăng sức sống trong đô thị.

+ Một số hạn chế của kinh tế đêm: Ô nhiễm tiếng ồn; tội phạm và/hoặc hành vi gây mất trật tự xã hội, đặc biệt khi có liên quan đến chất cồn; ùn tắc giao thông.

Kinh tế đêm hiện nay được xác định là một hướng phát triển nhằm thu hút và phát triển du lịch và văn hoá. Hiện tại, các thành phố du lịch nổi tiếng nhất thế giới hiện đều là cách thành phố phát triển kinh tế ban đêm rất mạnh như Pattaya (Thái Lan), New York (Mỹ), Macau (Trung Quốc), London (Anh)… Các thành phố này đều nằm trong Top 10 thành phố thu hút nhiều khách du lịch lớn nhất thế giới. Và đặc biệt nổi tiếng với những con phố ẩm thực, tiệc tùng, mua sắp, giải trí hoạt động thâu đêm.

Nước Anh là nước thực thi chính sách kinh tế đêm một cách hiệu quả mang lại một nguồn thu lớn cho ngân sách. Nền kinh tế đêm của Anh tạo ra trung bình 66 tỷ bảng (~ tỷ USD) doanh thu hàng năm và là nền công nghiệp đứng thứ 5 của toàn nền kinh tế. Điển hình trong Dự thảo Kế hoạch London xác định ba hạng mục phân loại nền kinh tế ban đêm: NT1 - Các khu vực có ý nghĩa quốc tế hoặc quốc gia; NT2 - Các khu vực có ý nghĩa cấp vùng hoặc tiểu vùng; NT3 - Các khu vực có ý nghĩa hơn cả địa phương. Nền kinh tế đêm của London có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự thành công của London và vai trò của nó như một thành phố hoạt động 24/7. London chiếm tới 40% trong số ước tính 66 tỷ bảng Anh cho tổng nền kinh tế ban đêm của Vương quốc Anh. Một khi bao gồm cả các tác động cấp số nhân, đóng góp tổng thể của nền kinh tế hoạt động vào ban đêm của London chỉ là hơn 40 tỷ bảng Anh. Hoạt động kinh tế này hỗ trợ trực tiếp cho 723 nghìn việc làm - một phần tám ở Thủ đô.

3- Kinh tế công nghiệp văn hóa sáng tạo

Theo định nghĩa của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), công nghiệp sáng tạo bao gồm những sản phẩm mang tính sáng tạo thuộc lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Đó là hoạt động bắt nguồn từ sự sáng tạo, kỹ năng và năng khiếu của cá nhân, có tiềm năng tạo ra của cải, việc làm qua quá trình khai thác quyền sở hữu trí tuệ.

Công nghiệp sáng tạo bao gồm các chu trình, sản phẩm và dịch vụ rộng lớn mà ở đó sự sáng tạo là trung tâm. Hiện nay, 11 ngành đã được coi là thuộc về công nghiệp sáng tạo gồm: quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, phim ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính.

UNESCO cũng quan niệm công nghiệp văn hóa là một phần của công nghiệp sáng tạo, và định nghĩa cả hai là “những lĩnh vực hoạt động có tổ chức với mục tiêu chính là sản xuất hoặc tái sản xuất, quảng bá, phân phối hoặc thương mại hóa hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động có nội dung bắt nguồn từ nguồn gốc văn hóa, nghệ thuật hoặc di sản”[3].

Trong Khung thống kê văn hóa (UNESCO framework for cultural statistics - FCS), UNESCO đã định nghĩa lĩnh vực văn hóa nhằm mục đích đo lường các hoạt động văn hóa, hàng hóa và dịch vụ được tạo ra từ các quá trình công nghiệp và phi công nghiệp.


Hình 4: Mô hình kinh tế văn hóa của UNESCO
.

Nguồn: Khung thống kê văn hóa UNESCO, 2009  


Hình
5: Ý nghĩa của công nghiệp của văn hóa.



Hình 6: Các yếu tố hỗ trợ thúc đẩy công nghiệp văn hóa và sáng tạo
.

Do đó, có thể định nghĩa nền kinh tế văn hóa - sáng tạo và nghệ thuật là nền kinh tế tích hợp phát triển dựa trên sức mạnh của các ngành công nghiệp văn hóa - sáng tạo để phát huy hiệu quả các nguồn lực của kinh tế lẫn văn hóa.

4- Kinh tế phức hợp (mixed-use)

Việc thúc đẩy một nền kinh tế phức hợp đích thực gắn liền với việc duy trì “các hoạt động hiện có và thu hút một nhóm đa dạng các hoạt động kinh tế mới, người dân và người sử dụng (Dalmas và những người khác, 2015). Sự tích hợp của các hoạt động văn hóa, thương mại, sản xuất và giải trí theo mô hình làm việc - sống - học - chơi (Peck, 2005) phù hợp với bản chất kết hợp của một cụm sáng tạo, và lợi ích của việc chuyển giao kiến thức và phát triển các mối quan hệ xã hội (Keane, 2009; Yang, Hao & Cai, 2015). Sự hiểu biết “sáng tạo” này về các giá trị kinh tế mâu thuẫn với việc bảo tồn các giá trị xã hội và việc xác thực nó không nên được liên kết với thành công kinh tế của nó (O'Connor & Gu, 2014).

Kinh tế phức hợp tích hợp/bao hàm cả kinh tế đám đông, kinh tế đêm và kinh tế công nghiệp văn hóa - sáng tạo. Một đặc trưng của kinh tế phức hợp là gắn chặt với văn hóa:

+ Cơ sở vật chất văn hóa đóng vai trò là chất xúc tác cho đầu tư và các hoạt động. Cơ sở vật chất văn hóa (chẳng hạn như lễ hội, địa điểm nghệ thuật và điểm đến lịch sử,…) có tác động gợn sóng theo nghĩa kinh tế, ngụ ý rằng nó có thể giúp tạo ra các hoạt động kinh tế phi văn hóa khác bằng cách thu hút du khách, người dân và khách du lịch chi tiêu trong nhà hàng, khách sạn và phương tiện giao thông công cộng,… Bằng cách này, các điểm đến văn hóa đóng vai trò như một chất xúc tác cho đầu tư và hoạt động. Các khu văn hóa không thể biểu diễn nếu không có các hoạt động hỗ trợ văn hóa và phi văn hóa khác. Nền kinh tế phức hợp này nên đa dạng, tốt nhất là ở quy mô vừa và nhỏ, với mục tiêu là thúc đẩy kinh tế của khu vực và giúp tạo ra tăng trưởng tự duy trì. Khái niệm này cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ đối tác công tư để cùng lúc khu vực công cung cấp các dịch vụ văn hóa; khu vực tư nhân đóng góp với các phòng trưng bày tư nhân khác và các dịch vụ hỗ trợ.

+ Các hoạt động văn hóa làm cơ sở cho nền kinh tế ban đêm. Các hoạt động văn hóa có khả năng tạo ra nền kinh tế ban đêm và mang lại sức sống cho các khu vực đang hồi sinh. Điều này có thể nhận thấy ở nhiều khu vực đã lạc hậu và do sự chèn ép của các hoạt động đó; họ có thể trở lại vai trò tích cực của nó. Các nhà quy hoạch và chính quyền thành phố nên thúc đẩy và quản lý nền kinh tế làm việc vào ban đêm như một phần trong cách tiếp cận của họ để hỗ trợ đóng góp kinh tế của các hoạt động văn hóa. Điều này đòi hỏi phải chú ý đến việc quản lý an ninh, khả năng tiếp cận và vận chuyển.

+ Tạo ra một loạt các hoạt động và kết hợp sử dụng (mixed-use). Rõ ràng là văn hóa có thể giúp cung cấp khối lượng quan trọng về số lượng và quy mô thời gian của hoạt động, tạo điều kiện cho hoạt động kinh tế và xã hội của một khu vực. Điều này có thể đạt được bằng cách khuyến khích một loạt các hoạt động và kết hợp các mục đích sử dụng trong một khu vực, điều này củng cố lẫn nhau và giúp tăng cường sự liên kết trong một khu vực thông qua việc sử dụng có mục đích các tài sản cho mục đích sử dụng văn hóa. Do đó, các khu văn hóa được tạo ra.

+ Văn hóa có khả năng hình thành ý thức về bản sắc và ý nghĩa của một địa điểm. Văn hóa cũng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nội dung cho hoạt động để tạo ra các khu đô thị sống động. Các sự kiện trong không gian công cộng, công viên và quảng trường giúp mang lại ý nghĩa và do đó, nâng cao tính cạnh tranh của những không gian đó. Bằng cách này, văn hóa kết hợp với môi trường được xây dựng sẽ giúp tạo ra cảm giác về ý nghĩa và bản sắc của địa điểm.

+ Văn hóa có thể cung cấp thông tin cho quá trình thiết kế đô thị. Điều quan trọng là khu vực công cộng đô thị phải có bản sắc địa phương tạo nên tính đặc trưng và đặc trưng của không gian, quảng trường và đường phố. Nếu bắt nguồn từ nền tảng văn hóa của khu vực, kiến trúc và thiết kế đô thị có thể phát triển kinh nghiệm đặc biệt của con người, nền kinh tế mạnh mẽ và hòa nhập nhạy cảm hơn với cộng đồng. Thiết kế đô thị cần phải có lương tâm và ý thức văn hóa để thành công. Sự đan xen giữa văn hóa và khu vực công cộng đô thị sẽ dẫn đến sự kết nối tích cực của thành phố thông qua những phát triển mới, các kế hoạch phục hồi và nghệ thuật công cộng.

+ Xây dựng thương hiệu cho địa điểm và các sản phẩm của nó. Các hoạt động văn hóa, nếu tồn tại, có khả năng biến địa điểm từ một địa điểm đơn thuần thành một điểm đến mà mọi người muốn đến thăm, sinh sống và làm việc. Điều đáng nói là các thành phố có thương hiệu thành công đã có thể tiếp thị lịch sử, văn hóa, chất lượng địa điểm, sự đa dạng, lối sống... Địa điểm văn hóa có thể ảnh hưởng hoàn toàn đến thương hiệu thành phố.

Lời kết

Năm 2008 là mốc đánh dấu kỷ nguyên của đô thị đã tới, các thành phố thực sự là nơi sinh sống của hơn 50% dân số toàn cầu. Năm 2019, OECD - Tổ chức phát triển kinh tế thế giới đã ra tuyên bố: Các đô thị đang đóng vai trò dẫn dắt kinh tế thế giới khi chúng là những trung tâm lớn của hoạt động kinh tế và đổi mới.

Như vậy, đô thị hóa hiện nay đang là cơ hội để phát triển kinh tế, đô thị hóa tạo ra bối cảnh phát triển thúc đẩy sự đổi mới của các cụm kinh tế, dẫn đến sự thay đổi lớn trong các hoạt động kinh tế và mô hình việc làm từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, đổi mới sáng tạo, đi kèm với đa dạng hóa kinh tế trong các ngành cốt lõi để xây dựng các mô hình kinh tế mới. Sự tập trung sản xuất kinh tế tại các vùng đô thị lớn và các cụm đô thị là điều đặc biệt quan trọng để đảm bảo công nghiệp hóa và hiện đại hóa tại Việt Nam.

Và cũng nhiều mong muốn cho đô thị Việt Nam, nhất là các siêu đô thị có khả năng chuyển đổi theo các mô hình kinh tế mới, đô thị thông minh và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo sáng tạo.

PGS.TS.KTS Nguyễn Hồng Thục
Đại học Quốc gia Hà Nội



[1] https://www.diamandis.com/blog/7-business-models-for-2020s. Truy cập ngày 31/10/2022

[2] https://www.local.gov.uk/publications/approaches-managing-night-time-economy. Truy cập ngày 31/10/2022.

[3]https://en.unesco.org/creativity/sites/creativity/files/digital-library/What%20Do%20We%20Mean%20by%20CCI.PDF. Truy cập ngày 29/10/2022.

 

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)