Tôi đang có vướng mắc liên quan tới việc xác định chủ đầu tư dự án nhà ở (khu đô thị) và xin có câu hỏi như sau:
Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 30/2021/NĐ-CP quy định:
“1. Nhà đầu tư trúng đấu thầu hoặc trúng đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở nếu có đủ điều kiện làm chủ đầu tư dự án quy định tại Điều 21 của Luật Nhà ở 2014, Khoản 2 Điều 119 của Luật Đất đai 2013 và pháp luật về kinh doanh bất động sản thì nhà đầu tư đó được làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở thương mại”.
Theo quy định trên thì nhà đầu tư trúng đấu thầu dự án đầu tư xây dựng nhà ở nếu có đủ điều kiện làm chủ đầu tư dự án quy định tại Điều 21 của Luật Nhà ở 2014, Khoản 2 Điều 119 của Luật Đất đai 2013 và pháp luật về kinh doanh bất động sản thì nhà đầu tư đó được làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở thương mại. Tuy nhiên, nhà đầu tư trúng đấu thầu có thể là liên danh 2 nhà đầu tư, vậy cho tôi hỏi, việc xác định chủ đầu tư dự án nhà ở trong trường hợp liên danh 2 nhà đầu tư trúng đấu thầu như thế nào? Có phải chủ đầu tư là liên danh 2 nhà đầu tư? Bởi theo quy định tại Điều 21 Luật nhà ở 2014 thì điều kiện làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở thương mại là “Doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam” và không đề cập tới liên danh 2 nhà đầu tư.
Ngoài ra, Khoản 8 Điều 6 Luật nhà ở quy định các hành vi bị nghiêm cấm: “8. Chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở ủy quyền hoặc giao cho bên tham gia hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh, góp vốn hoặc tổ chức, cá nhân khác thực hiện ký hợp đồng cho thuê, thuê mua, mua bán nhà ở, hợp đồng đặt cọc các giao dịch về nhà ở hoặc kinh doanh quyền sử dụng đất trong dự án”.
Liên danh 2 nhà đầu tư không phải doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, do đó, liên danh sẽ phải ủy quyền cho một thành viên là đại diện liên danh để thực hiện giao kết các hợp đồng phát sinh trong quá trình đầu tư dự án. Nếu xác định liên danh là chủ đầu tư dự án như quy định tại Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 30/2021/NĐ-CP thì việc ủy quyền này có vi phạm điều cấm của Luật Nhà ở như quy định tại Điều 6 hay không?