Nông thôn mới trong lòng đô thị

Thứ sáu, 10/07/2015 15:13
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
1. Đặt vấn đềPhát triển khu vực nông thôn đã được Đảng và Nhà nước coi là nhiệm vụ trọng tâm theo Nghị quyết số 24/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết hội nghị lần 7 của ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Và Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/06/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 đã nêu rõ: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hiện đại cơ cấu kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triểm nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch”. Kèm theo đó là ban hành bộ tiêu chí Quốc gia Nông thôn mới (Quyết đinh 491/QĐ-TTg, ngày 14/06/2010 của Thủ tướng Chính phủ).

Nông thôn và Đô thị có những mối quan hệ tương hỗ và phủ định lẫn nhau. Nông thôn không chỉ là nơi lưu giữ những truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, là nơi cho ra đời những sản phẩm nông nghiệp đặc trưng có giá trị cao, không chỉ là nơi đảm bảo an ninh lương thực cho các đô thị trung tâm mà còn là những không gian xanh góp phần hình thành nên những hành lang xanh, vành đai xanh nhằm bảo đảm cân bằng sinh thái cho các đô thị.

Trong quá trình đô thị hóa nhanh tại các đô thị lớn, sự mở rộng và phát triển của những đô thị này đã lựa chọn những khu vực thuận lợi nhất để đầu tư phát triển đó là những vùng đất trống, hoặc có mật độ dân cư thấp hoặc những khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp. Điều này đã để lại những vùng phát triển mới những cụm làng, xã có mật độ dân cư cao. Đây là sự hình thành nên nông thôn trong lòng đô thị.

Trên thực tế, sự phát triển của nông thôn trong lòng đô thị hiện nay đang gặp rất nhiều vấn đề bởi nó có những đặc thù riêng biệt và luôn chịu áp lực mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa. Đô thị hóa là động lực cho sự phát triển kinh tế, tạo tiền đề cho sự thay đổi về cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng phi nông nghiệp, tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân, cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư nâng cấp, khả năng tiếp cận của ngưởi dân với các tiện ích xã hội như văn hóa, y tế, giáo dục được nâng cao, thu nhập của người dân được cải thiện nhưng kèm theo đó là những kéo theo rất nhiều hệ lụy không mong muốn như: sư phá vỡ cấu trúc làng xã đã được xây dựng từ lâu đời, sự mai một của các làng nghề truyền thống, sự mất đi bản sắc văn hóa,… Việc đánh mất các làng xã nông thôn, các vùng sản xuất nông nghiệp không chỉ làm cho đô thị đáng mất một phần bản sắc của mình mà còn phá hủy đi những lá chắn xanh bảo vệ đô thị, làm mất đi những không gian sinh hoạt, vui chơi, giải trí mang tính chất sinh thái.

Được đánh giá là một bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu của đô thị, vì vậy, lồng ghép trong chương trình Nông thôn mới, tùy theo đặc trưng từng khu vực, chúng ta cần phải có những mô hình và chiến lược phù hợp để phát triển bền vững khu vực nông thôn trong lòng đô thị, tạo cho đô thị phát triển giữ gìn được bản sắc riêng, có kế hoạch, gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng sống cho ngưởi dân khu vực đô thị và nông thôn.

Mô hình kinh tế quyết định mô hình cư trú. Vì vậy, để phát triển nông thôn trong lòng đô thị bền vững, không bị đối lập với đô thị rất cần một mô hình kinh tế phù hợp, làm nền tảng cho sự phát triển đô thị. Nông thôn mới trong lòng đô thị trở thành một vấn đề rất cần được sự nghiên cứu, quan tâm đúng mức.

2. Thực trạng về xây dựng, phát triển nông thôn nằm trong vùng đô thị.

a. Đặc trưng về kinh tế, xã hội của nông thôn.

Khái niệm: Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem trên nhiều góc độ: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Theo thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT về việc hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí Quốc gia về Nông thôn mới, thì: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.

Kinh tế nông thôn: Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ… Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể… Xét về không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm các vùng như: vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên canh cây màu, vùng trồng cây ăn quả…

Cơ cấu kinh tế nông thôn có đặc trưng riêng của vùng nông thôn mang tính đặc thù. Cơ cấu kinh tế nông thôn, bị chi phối mạnh mẽ bởi cấu trúc của kinh tế nông thôn. Điều đó biểu hiện ở chỗ, trong cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp, thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành.

Quan hệ xã hội ở nông thôn: Nông thôn có quan hệ cộng đồng rất cao với các mối quan hệ xã hội bền vững như: Mối quan hệ gia đình và dòng họ được chú trọng và đề cao từ thời xã hội phong kiến với sự ảnh hưởng của nho giáo. Quan hệ láng giềng ngõ xóm, đây là sự tiêu biểu cho mối quan hệ cộng đồng làng xã khu vực nông thôn. Mối quan hệ nghề nghiệp, quan hệ chính quyền… Các mối quan hệ này đan xen và tác động lẫn nhau.

b. Đặc trưng về kinh tế, xã hội của đô thị

Đô thị: là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn (Luật Quy hoạch đô thị).

Đặc trưng về kinh tế - xã hội: Đô thị được đặc trưng bởi vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của một vùng lãnh thổ, có cơ sở hạ tầng thích hợp và dân cư nội thị không dưới 4.000 người (đối với miền núi là 2.000 người) và tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu là 65%.

Mỗi đô thị là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành của một vùng lãnh thổ nào đó, thậm chí là trung tâm của một quốc gia. Chẳng hạn như thành phố Hà Nội là trung tâm tổng hợp (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…) của cả nước, thành phố Cần Thơ là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…của khu vực miền Tây Nam Bộ.

Yếu tố cơ bản thúc đẩy sự hình thành và phát triển đô thị ở chỗ nó là nơi tập trung các cơ quan hành chính của địa phương và là nơi tập trung giao lưu các bộ phận của sản xuất như đầu mối giao thông, đầu mối buôn bán, sản xuất công nghiệp tập trung…

Trong không gian đô thị từng cá nhân và từng gia đình ít bị ràng buộc bởi các mối quan hệ chằng chịt như ở thôn quê. Ở nông thôn giữa 2 người, 2 gia đình có khi vừa là quan hệ huyết thống, vừa là láng giềng, lại vừa có cùng lợi ích kinh tế (cùng làm nông nghiệp hay một nghề thủ công nào đó chẳng hạn)… do đó tính cộng đồng cao hơn. Còn ở đô thị thì mối quan hệ cùng lợi ích kinh tế là quan hệ chính (buôn có bạn bán có phường) hoặc quan hệ chính trị như cùng giai cấp/đẳng cấp. Quan hệ láng giềng hay huyết thống vẫn duy trì nhưng là thứ yếu và không phổ biến.

c. Tình hình xây dựng, phát triển nông thôn nằm trong vùng đô thị.

Đô thị và nông thôn có hàng loạt đặc điểm có tính đối lập nhau: Sự khác biệt về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, sự khác nhau về các mối quan hệ xã hội… Vì vậy sự phát triển nông thôn trong lòng đô thị cũng có những đặc trưng riêng nhất định.

Nông thôn phát triển trong lòng đô thị chịu sự tác động ảnh hưởng của văn hóa đô thị, sự thay đổi về phong tục tập quán, sinh hoạt và đặc biệt chịu sự tác đọng mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa.

Đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã trực tiếp góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng giá trị nông, lâm, thủy sản trong tổng thu nhập quốc dân trong nước (GDP) và tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP. Đối với nông nghiệp, cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn. Trong trồng trọt, tỷ trọng hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả ngày càng tăng. Sự hình thành trên địa bàn nông thôn những khu vực công nghiệp, khu chế xuất các trung tâm dịch vụ, các khu đô thị mới…đã nâng cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng dụng rộng rãi khoa học, công nghệ…

Tuy nhiên, bên cạnh rất nhiều lợi ích từ việc đô thị hóa mang lại, đô thị hóa cũng kéo theo nhiều hệ lụy như tình trạng nông dân bị mất đất canh tác nhượng lại vị trí cho các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề và dịch vụ, các vấn đề việc làm cho nông dân bị mất đất, phương pháp đền bù khi giải phóng mặt bằng, cách thức di dân, giãn dân, đô thị mất đi không gian xanh góp phần hình thành nên những hành lang xanh, vành đai xanh nhằm bảo đảm cân bằng sinh thái cho các đô thị… Nhiều địa phương đã diễn ra tình trạng trưng dụng, thu hồi đất đai ồ ạt, trong đó chủ yếu là đất ruộng của nông dân. Cách làm nôn nóng, làm bằng được mà quên đi các giá trị nhân văn đã làm cho nhiều làng xã bị biến dạng nghiêm trọng về cảnh quan, không gian truyền thống và tệ hơn là đã làm cho nhiều người nông dân bị mất nhiều tư liệu sản xuất, mất việc làm, dẫn đến các quan hệ xã hội và cả giá trị văn hóa truyền thống bị đảo lộn, mai một.

3. Để phát triển nông thôn mới trong lòng đô thị hiệu quả.

a. Kinh tế nông thôn trong lòng đô thị phải có sự thay đổi.

Phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hiện đại kết hợp thương mại dịch vụ và du lịch nông thôn theo hướng du lịch văn hóa, sinh thái.

Thực hiện tốt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới nhằm từng bước phát triển nông thôn toàn diện. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quá trình hiện đại hóa nông thôn về sản xuất nông nghiệp, TTCN, dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong khu vực nông thôn, thu hẹp khoảng cách với thành thị. Bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị truyền thống giữ gìn bản sắc băn hóa địa phương, bảo vệ môi trường sinh thái.

Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, công nghệ cao, áp dụng khoa học công nghệ, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, sức cạnh tranh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho người dân nông thôn.

Tập trung đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Có cơ chế chính sách khuyến khích ứng dụng mạnh khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và phát triển mạnh công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Tăng nhanh các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế, có giá trị tăng và sức cạnh tranh cao. Thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn để chuyển nhanh lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và thúc đẩy phát triển sản xuất nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Phát triển các hình thức hợp tác liên kết đa dạng, phù hợp, hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm.

Du lịch nông nghiệp trên thế giới cũng rất được coi trọng vì đã chứng minh được sự đóng góp to lớn không những về mặt kinh tế mà còn về các mặt xã hội, bảo vệ môi trường gốc rễ về tự nhiên, văn hóa và lịch sử. Trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa các nước đều dùng giải pháp này để giảm thiểu khoảng cách bất công giàu nghèo về khoảng cách thu nhập giữ thành thị và nông thôn khi chỉ chú trọng thái quá đến sự phát triển bất động sản đô thị và xây dựng các khu công nghiệp. Thực chất đây là một hình thức phát triển mối giao hòa về mặt tự nhiên, văn hóa và con người giữa các đô thị và nông thôn thông qua việc đến ở hoặc tham quan có mục đích nhằm hưởng thụ các sản vật địa phương tại từng nông hộ gia đình hoặc trang trại. Bên cạnh đó, còn được thưởng ngoạn các danh lam thắng cảnh và tham gia văn hóa đồng quê nên du lịch nông nghiệp đã được khẳng định là một hình thức du lịch mang tính cộng đồng bình đẳng và bền vững.

Sự nghiệp nông nghiệp, nông thôn và nông dân đang tiến hành sâu rộng theo chủ trương đổi mới nông thôn về các mặt của Đảng và Chính phủ hiện nay sẽ tạo một môi trường thuận lợi cho việc phát triển du lịch nông nghiệp tại các làng nghề nông lâm ngư nghiệp truyền thống ở nước ta và ngược trở lại du lịch nông nghiệp sẽ là động lực thúc đẩy cho việc thực hiện phong trào nông thôn mới với tốc độ vừa nhanh vừa bền vững do không những tham gia tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở rộng đầu ra của sản phẩm mà còn bảo tồn được các giá trị văn hóa gốc của nông thôn hoặc giá trị về thương hiệu hàng hóa đặc thù.

Tăng tỷ trọng công nghiệp

Diện tích đất trồng trọt cho nông nghiệp ngày càng giảm, mỗi năm chuyển khoảng 20 vạn ha đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Vì thế, thời gian nông nhàn ngày càng tăng, tạo ra sức ép gay gắt về việc làm, thu nhập ở khu vực nông thôn.

Hiện nay, phát triển công nghiệp nông thôn đã thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng và Nhà nước tới phát triển kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp. Nhiều địa phương đã biết gắn chương trình khuyến công với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng hiện đại hóa - công nghiệp hóa. Trong đó, đưa chế biến nông, lâm, thủy sản vào chương trình phát triển công nghiệp tại địa phương và bước đầu đã gặt hái được những thành công nhất định.

Việc phát triển công nghiệp nông thôn nói chung và phát triển tiểu thủ công nghiệp nói riêng phải gắn với phát triển nông nghiệp, công nghiệp và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần chú ý lựa chọn phát triển những ngành nghề có tiềm năng và lợi thế so sánh; lựa chọn công nghệ, thiết bị phù hợp, kết hợp giữa truyền thống và tiên tiến; đầu tư nâng cao chất lượng, phát triển các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của thị trường; mở rộng thị trường xuất khẩu, chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, kết hợp hài hòa nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ chức trong phát triển tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời, phát triển tiểu thủ công nghiệp phải phù hợp với chiến lược phát triển ngành công nghiệp, gắn kết quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung với quy hoạch phát triển công nghiệp địa phương nói riêng.

Phát triển kinh tế làng nghề, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ đô thị theo đặc trưng từng khu vực.

Phát triển làng nghề, tiểu thủ công nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong khu vực nông thôn, tận dụng được lao động nông nhàn. Khi làng nghề phát triển cũng thúc đẩy các ngành nghề khác phát triển, các cơ sở sản xuất chế biến quy mô lớn hơn hộ gia đình được hình thành và được đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm. Sự xuất hiện của những cơ sở sản xuất được đầu tư toàn diện giúp người dân từ bỏ thói quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và sự thụ động trong sản xuất hàng hóa. Tính liên kết trong sản xuất giữa các cơ sở sản xuất lớn, nhỏ được hình thành có tác dụng hỗ trợ đắc lực trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, dự báo nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để sản xuất phù hợp. Tuy nhiên cần phải chú trọng tới vấn đề bảo vệ môi trường, thu gom và xử lý yếu tố gây ô nhiễm môi trường do đặc thù sản xuất.

Tạo điều kiện hỗ trợ cho các hộ gia đình để họ phát triển kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng bởi thực tế có nhiều cá nhân, hộ gia đình hiện nay đang rất thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm kinh tế.

Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế tạo việc làm tại chỗ cho người lao động, phát trển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất làng nghề theo đặc trưng từng vùng miền. Khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến làm ăn.

Mở rộng và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm, thu hút lao động nhất là những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Có như vậy mới phù hợp với nguồn nhân lực hiện nay để từng bước rút dần lao động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp.

Phát triển các làng nghề truyền thống, các ngành nghề thủ công nghiệp. Đây là mô hình nếu phát triển được sẽ giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động, hơn nữa các ngành nghề này có nhu cầu lao động lớn.

Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao.

Xuất khẩu lao động hiện nay đang là xu thế của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đó là giải pháp cho phép người lao động có cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và cải thiện thu nhập. Đây là một thị trường tiềm năng và đang khai thác có hiệu quả. Nhưng vấn đề trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, kỷ luật lao động…của lao động nói chung hay lao động nông thôn nói riêng là một trở ngại cho việc tuyển dụng lao động. Vì vậy, giải pháp xuất khẩu lao động là một giải pháp khả thi song để phát huy hiệu quả thật sự thì cần chú ý đến các vấn đề nêu trên.

b. Hạ tầng phải có sự thay đổi tương xứng với sự thay đổi của mô hình kinh tế Nông thôn mới.

Phát triển sản xuất đòi hỏi hạ tầng cũng phải phát triển tương xứng, đặc biệt là hạ tầng cho giao thông cơ giới với cả khu vực sản xuất nông nghiệp và khu vực dân cư. Với khu vực sản xuất là việc vận chuyển hàng hóa trực tiếp từ cánh đồng đến nơi tiêu thụ. Với khu vực dân cư là việc bảo đảm cho yêu cầu vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm cho làng nghề ngoài các nnhu cầu về sinh hoạt khác (đi lại, cứu hỏa, cấp cứu…)
Từ kinh nghiệm các làng nghề gốm, cơ khí, dệt tại các vùng đồng bằng sông Hồng cho thấy các khu vực muốn phát triển thủ công rất cần có sự hỗ trợ của giao thông tốt.

Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường. Hệ thống thoát nước, thu gom nước thải phải được xử lý triệt để, không thể để xảy ra ô nhiễm như các làng nghề hiện nay. Đặc biệt trong xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khi có nhiều hoạt động phi nông nghiệp, dịch vụ trong khu vực nông thôn thì việc phải có hệ thống thu gom xử lý nước thải là điều bắt buộc để đảm bảo môi trường nông thôn.

c. Xu hướng phát triển xanh, bền vững.

Xu hướng này là một xu hướng tiến bộ được nhiều nước trên thế giới đang áp dụng. Đây góp phần hình thành nên những hành lang xanh, vành đai xanh nhằm bảo đảm cân bằng sinhh thái cho các đô thị.

Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển sâu, giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái và dịch vụ môi trường, đổi mới công nghệ (hay mặt cung của nền kinh tế).

- Xanh hóa sản xuất thông qua sắp xếp lại cơ cấu, đặc biệt là hạn chế phát triển những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, giảm sự phụ thuộc vào phân bón và hóa chất diệt cỏ, trừ sâu, tạo sự đa dạng về sinh học.

- Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên nước, tài nguyên đất và tài nguyên khoáng sản.

- Thúc đẩy các ngành kinh tế Xanh phát triển nhanh để làm giàu thêm nguồn vốn tự nhiên của đất nước, tạo thêm việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.

- Phát triển kết cấu hạ tầng bền vững.

- Đổi mới công nghệ áp dụng phổ biến sản xuất sạch hơn.

- Khai thác các giá trị văn hóa để phục vụ du lịch, phát triển kinh tế.

Những nguyên tắc này rất phù hợp với khả năng phát triển ở nông thôn, vừa phát triển kinh tế, vừa tạo môi trường xanh, tạo sự cân bằng cho đô thị.

4. Kết luận, kiến nghị.

Nông thôn Việt Nam là chiếc nôi sản sinh, nuôi dưỡng bảo vệ văn hóa dân tộc ngàn năm. Đối với những khu vực nông thôn trong lòng đô thị, một số yếu tố tiến bộ của văn hóa đô thị đã lan tỏa về nông thôn rất nhanh, tạo nên những sắc thái mới, đặc trưng trong đời sống, sinh hoạt tinh thần của người nông dân và cộng đồng làng xã. Nhiều loại hình, giá trị văn hóa ở nông thôn cũng được giới thiệu rộng rãi, thuận lợi hơn ở các đô thị.

Nông thôn là một cơ cấu quan trọng của đô thị. Là khu vực tạo nên hành lang xanh, khu sinh thái và tạo sự cân bằng cho đô thị. Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến những khu vực nông thôn trong lòng đô thị này đổi thay sâu sắc về văn hóa làng xã trước những tác động của đô thị hóa. Tuy nhiên, những yếu tố của cấu trúc văn hóa làng xã thay đổi không giống nhau trong quá trình đô thị hóa.

Một số yếu tố dần biến mất. Một số yếu tố khác được bảo lưu và chuyển hóa để thích ứng với những điều kiện mới. Một số làng xã đô thị hóa còn giữ lại được các không gian mở như đình, chùa, ao làng…đã trở thành những không gian lý tưởng và góp phần nâng cao chất lượng sống của khu vực.

Có chiến lược, mô hình kinh tế phù hợp định hướng cho các xã Nông thôn mới trong lòng đô thị phát triển bền vững là một vấn đề rất thực tiễn. Điều này làm giảm các mâu thuẫn về kinh tế, xã hội giữa đô thị - nông thôn, đô thị - vùng ven, giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, giữa phát triển kinh tế và gìn giữ môi trường đang ngày càng gay gắt. Giữ tốt vai trò là hành lang xanh cho đô thị, tạo sự cân bằng sinh thái cho đô thị.
 

(Nguồn: Tạp chí Quy hoạch Xây dựng, Số 73/2015)

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)