1. Tổng quan về mô hình kinh tế chia sẻ
Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2019, phê duyệt Đề án “Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ” , với mục tiêu là đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp theo mô hình kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống. Vậy kinh tế chia sẻ là gì?
1.1. Khái niệm về kinh tế chia sẻ
Kinh tế chia sẻ (sharing economy) là một thuật ngữ được bàn luận nhiều trên các diễn đàn thương mại điện tử. Trên thế giới, khái niệm “kinh tế chia sẻ” hoặc “mô hình chia sẻ” đã xuất hiện từ rất lâu. Tại Mỹ, mô hình ban đầu có tính chất “chia sẻ ngang hàng” nhưng không rõ rệt, từ những năm 1995. Mô hình kinh doanh này thực sự phát triển mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng năm 2008 khiến người dân buộc phải thay đổi cách tiêu dùng để thích ứng với bối cảnh khó khăn.
Mô hình kinh tế chia sẻ khởi đầu bằng dịch vụ website thông tin cho thuê quảng cáo, người tìm việc, việc tìm người… và nó đã giúp cho nhiều người có thể kiếm được việc làm, kiếm được tiền quảng cáo. Việc chia sẻ những tài nguyên sẵn có cùng với sự hỗ trợ của các ứng dụng công nghệ đã đem lại cho nhà cung ứng dịch vụ, người cho thuê và sử dụng tài nguyên nhiều lợi ích và khoản lợi nhuận khổng lồ. Vì vậy, mô hình kinh tế chia sẻ đã nhanh chóng phát triển vượt ra khỏi biên giới nước Mỹ, lan rộng khắp châu Âu và toàn thế giới.
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kinh tế chia sẻ. Theo ông Yuhei Okakita, Phó Giám đốc bộ phận chính sách thông tin kinh tế - Bộ Kinh tế, thương mại và công nghiệp Nhật Bản: “Kinh tế chia sẻ là hoạt động tái thiết kinh tế, trong đó các cá nhân ẩn danh có thể sử dụng các tài sản nhàn rỗi (bao gồm cả các tài sản vô hình như kỹ năng cá nhân và thời gian rảnh rỗi), được sở hữu bởi các cá nhân khác thông qua các nền tảng kết hợp trên internet”.
Theo một số chuyên gia kinh tế: “Kinh tế chia sẻ là một thuật ngữ đề cập đến mô hình kinh doanh khai thác các yếu tố tài nguyên sẵn có của người dùng cuối cùng và kết hợp với các yếu tố công nghệ để hợp thành một mô hình kinh doanh”.
Ngoài ra, kinh tế chia sẻ còn được hiểu là mô hình “thị trường lai” (ở giữa sở hữu và tặng quà), trong đó đề cập đến việc chia sẻ quyền truy cập vào hàng hóa và dịch vụ (phối hợp thông qua các dịch vụ trực tuyến dựa vào cộng đồng).
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế chia sẻ, nhưng nhìn chung các định nghĩa đều thể hiện bản chất của mô hình kinh tế chia sẻ là tận dụng sự phát triển của công nghệ số để tiết kiệm chi phí giao dịch và tiếp cận một số lượng lớn khách hàng thông qua các nền tảng số. Mô hình kinh tế chia sẻ có đặc điểm cơ bản là sử dụng các ứng dụng công nghệ số để cung cấp thông tin cho các cá nhân và tổ chức. Từ đó cho phép tối ưu hóa các nguồn lực thông qua sự tái phân phối, chia sẻ và tái sử dụng các năng lực dư thừa hàng hóa, dịch vụ.
1.2. Các mô hình kinh tế chia sẻ
Mô hình kinh tế chia sẻ được chia thành ba loại chính là:
- Một là, nền tảng tập trung (đơn vị cung cấp nền tảng vừa sở hữu tài sản, vừa quyết định đánh giá thành dịch vụ);
- Hai là, nền tảng phi tập trung (đơn vị cung cấp nền tảng chỉ tạo ra môi trường kết nối, người cung cấp dịch vụ là người sở hữu tài sản và cũng là người quyết định giá thành dịch vụ;
- Ba là, nền tảng hỗn hợp (chủ tài sản cung cấp dịch vụ với giá do nền tảng đưa ra và nền tảng cũng có một phần vai trò trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm được cung ứng ra ngoài thị trường). Đối tượng tham gia mô hình kinh tế chia sẻ rất đa dạng và phong phú. Đó có thể là người sử dụng cá nhân, doanh nghiệp phi lợi nhuận, doanh nghiệp vì lợi nhuận, cộng đồng địa phương hoặc khu vực công.
Những mô hình nổi bật thuộc nền kinh tế chia sẻ có sự lan tỏa nhất định trên toàn cầu, có thể kể tới như:
+ Mô hình RelayRides: Đây là mô hình chia sẻ xe ô tô trong cộng đồng, tận dụng nguồn tài nguyên đang bị lãng phí là những chiếc xe ô tô được tư nhân sở hữu. Giá đặt ra trên nền tảng RelayRides thấp hơn giá của các công ty cho thuê xe khác khoảng 35%. Chủ sở hữu xe có thể cho thuê xe của mình trên nền tảng và thu về trung bình 300-500 USD/tháng, có thời điểm lên tới 1.000 USD/tháng. Đối tượng được thuê xe là những người được đánh giá là lái xe an toàn trong ít nhất 2 năm (không gây tai nạn, không bị phạt). Kết thúc quá trình giao dịch, người thuê và người cho thuê có thể đánh giá lẫn nhau.
+ Mô hình Airbnb: Là mô hình chia sẻ nhà ở cho người đi du lịch, tận dụng nguồn tài nguyên đang lãng phí là những căn phòng không dùng đến. Thông qua nền tảng này, chủ sở hữu căn nhà cho thuê và người thuê nhà sẽ gặp được nhau và ký kết hợp đồng thuê nhà. Giá thuê nhà định ra trên nền tảng Airbnb luôn thấp hơn giá thuê phòng khách sạn khoảng 3 lần. Theo ước tính, chỉ trong 1 đêm đã có đến 40.000 người thuê chỗ ở từ một dịch vụ cung ứng 250.000 phòng tại 30.000 thành phố ở 192 nước và mọi thanh toán đều qua mạng internet.
Loại hình căn hộ thông minh cho thuê
Điều đáng nói là những căn phòng hay chỗ ngủ này không do một chuỗi khách sạn nào đó cung cấp mà do các cá nhân. Những người cần thuê và chủ cho thuê được “mai mối” nhờ Airbnb - một công ty có trụ sở tại San Francisco (Mỹ). Sau giao dịch người thuê và người cho thuê cũng có thể đánh giá lẫn nhau trên nền tảng này. Hiện nay, Airbnb được định giá gần 20 tỷ USD và hiện diện ở rất nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
+ Mô hình TaskRabbit: Còn gọi là mô hình giúp đỡ nhau trong cộng đồng, được đầu tư 38 triệu USD vào năm 2012. Mô hình này được hiểu một cách đơn thuần là những người có công việc cần thực hiện, nhưng không đủ khả năng (thiếu thời gian, kỹ năng…) sẽ đẩy thông tin lên nền tảng để tìm kiếm người lao động phù hợp (kỹ năng, mức giá, vị trí). Người có nhu cầu cần làm việc sau khi hoàn thành công việc sẽ được thanh toán online. Kết thúc công việc, người lao động và người thuê cũng có cơ hội đánh giá lẫn nhau trên nền tảng.
+ Mô hình KickStarer: Còn gọi là mô hình gọi vốn từ cộng đồng để thực hiện các dự án. Người có dự án nghệ thuật, phát triển phần mềm, nghiên cứu khoa học công nghệ sẽ đăng tải nội dung dự án của mình lên nền tảng để cộng đồng người dùng KickStarer xem xét cấp vốn. Người cấp vốn có thể thu lại những sản phẩm như áo phông, phần mềm sử dụng, sản phẩm mẫu… của dự án mà họ cấp vốn, tùy theo mức tiền mà họ bỏ ra để ủng hộ. Mô hình này thu hút sự tham gia của số đông những người trẻ khởi nghiệp. Số vốn KickStarer đã thu hút hơn 10.000 dự án đạt gần 1 tỷ USD.
+ Mô hình cho vay trong cộng đồng Peerlending: Là mô hình trong đó các đối tượng trong cộng đồng cho vay lẫn nhau, không thông qua trung gian là ngân hàng. Ví dụ, các làng xã khu dân phố thành lập quỹ chung dùng để hỗ trợ cho người trong khu gặp việc khẩn cấp. Nền tảng đánh giá người vay thông qua dữ liệu quá khứ và tập hợp dữ liệu thu thập được từ nhiều nguồn để đưa ra các mức độ an toàn của khoản vay. Các khoản vay trên nền tảng này thường có lãi suất thấp hơn nhưng người cho vay lại thu được nhiều hơn gửi vào ngân hàng, theo công ty là do chi phí tổ chức của công ty thấp hơn của ngân hàng.
+ Bartering giữa các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp có những tài sản, máy móc thừa, nhà kho chưa dùng đến, sản phẩm tồn kho…có thể trao đổi với nhau để cả 2 bên cùng có lợi, đồng thời tiết kiệm thời gian do không phải thông qua việc chuyển tiền. Hoặc các doanh nghiệp có những kỹ năng chuyên môn riêng biệt có thể thực hiện đào tạo cho một nhóm doanh nghiệp, chia sẻ kỹ năng của mình, nhận về thông tin hữu ích… Thị trường chia sẻ doanh nghiệp với doanh nghiệp có thể còn lớn hơn so với thị trường chia sẻ giữa người dân.
2. Tác động của một số loại hình kinh tế chia sẻ đến đầu tư phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam
a. Mô hình kinh tế chia sẻ tác động tới nguồn lực cho phát triển đô thị thông minh
Trong đầu tư phát triển đô thị nói chung, đầu tư phát triển đô thị thông minh nói riêng, cần huy động các thiết bị máy móc, tài sản, nguồn vốn nhàn rỗi vào xây dựng đô thị, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho phát triển. Điển hình trong dịch vụ Văn phòng - khách sạn đã tận dụng các phòng trống đã huy động khoảng 18.230 cơ sở lưu trú tham gia mô hình Airbnb và nhiều cơ sở kinh doanh chia sẻ phòng làm việc, phòng ở cho các ứng dụng khác. Từ đó làm tăng hiệu quả đầu tư kiểu văn phòng - khách sạn, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp hàng ngàn tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước ngày càng cao.
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, mô hình kinh tế chia sẻ kết hợp văn phòng -khách sạn, từ năm 2015 đến nay có khoảng 58.000 căn hộ Officetel đã được đầu tư xây dựng thuộc trên 130 dự án, trong đó có 60 dự án với trên 17.000 căn Officetel và trên 70 dự án với khoảng trên 411.000 căn Condotel. Ngoài ra, còn hàng chục nghìn căn Condotel, Officetel đã được đầu tư xây dựng tại các dự án đầu tư do các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thẩm định thiết kế cơ sở theo thẩm quyền. Năm 2019, tổng số căn hộ Officetel tại các dự án được Bộ Xây dựng thẩm định là 702 căn.
b. Mô hình kinh tế chia sẻ tác động thúc đẩy kinh doanh, mở rộng và phát triển thị trường
Mô hình kinh tế chia sẻ góp phần thúc đẩy đầu tư phát triển, mở rộng và tăng quy mô thị trường. Điều này được thể hiện như sau:
- Một là, kinh tế chia sẻ là một phương thức kinh doanh mới, tận dụng được tiến bộ khoa học và công nghệ thông tin để mở rộng việc đầu tư phát triển đô thị thông minh trong các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Cụ thể: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã giúp cho việc đầu tư phát triển đô thị thông minh; xây dựng và quản lý chính quyền đô thị. Các thiết bị điện, điện tử thông minh được ứng dụng trong việc xây dựng ngôi nhà thông minh,các khu đô thị thông minh và thành phố thông minh…đã được kết nối đồng bộ để người dân sử dụng các tiện ích hiệu quả, đồng bộ và hợp lý nhất. Ngoài ra, nó còn cung cấp dịch vụ đánh giá lẫn nhau trên môi trường trực tuyến, giữa nhà đầu tư và khách hàng.
- Hai là, kinh tế chia sẻ mở ra nhiều cơ hội để đầu tư phát triển đô thị kiểu văn phòng - khách sạn, tăng thêm nhà đầu tư vào loại hình lưu trú Airbnb, tạo điều kiện rút ngắn thời gian tham gia các nhà đầu tư. Do đó, chi phí đầu tư thấp hơn so với chi phí đầu tư truyền thống nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, huy động thiết bị máy móc, nguồn vốn nhàn rỗi được hiệu quả hơn.
Cụ thể: trong dịch vụ đầu tư phát triển văn phòng - khách sạn theo kiểu Airbnb, nghiên cứu của Outbox 2019 cho thấy có khoảng 18.230 nhà cho thuê, trong đó có 69% chủ nhà có nhiều văn phòng và căn hộ cho thuê. Tổng số lượt khách đặt phòng qua Airbnb tới Việt Nam năm 2017 khoảng 400 nghìn người, trong đó 84% khách hàng là người nước ngoài.
Trong lĩnh vực cho vay ngang hàng, hiện có khoảng 100 công ty đang hoạt động, chỉ tính riêng công ty Tima đã có trên 6 triệu đơn vay được tư vấn… Điều đó cho thấy sự sôi động của hoạt động kinh tế chia sẻ trên thị trường.
- Ba là, hoạt động kinh tế chia sẻ mang tính đổi mới, sáng tạo không ngừng do áp dụng triệt để thành tựu công nghệ 4.0 và giao thoa kinh tế số, nền kinh tế chia sẻ luôn tạo ra các sản phẩm đầu tư phát triển đô thị kiểu văn phòng - khách sạn đa dạng, hợp lý và ngày càng hiện đại để có nhiều sự lựa chọn cho khách hàng.
- Bốn là, sự phát triển các loại hình kinh tế chia sẻ tác động trực tiếp và làm tăng quy mô đầu tư phát triển đô thị thông minh trong giai đoạn hiện nay. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ 4.0 kéo theo sự sáng tạo trong việc mở rộng quy mô thị trường các loại hình đầu tư phát triển đô thị thông minh. Trong lĩnh vực đầu tư phát triển thị trường dịch vụ chia sẻ nhà ở, phòng ở, nhà cho thuê, văn phòng cho thuê…Airbnb đã mở rộng quy mô thị trường từ 1.000 phòng cho thuê vào năm 2015 và chỉ tập trung ở Hà Nội và TP.HCM lên 40.800 phòng vào tháng 1/2019 ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước (tăng gấp gần 5 lần sau 3 năm).
Theo khảo sát giữa Facebook và Morning Consult, tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đã có 74% doanh nghiệp nhỏ cho biết việc sử dụng Facebook giúp họ tăng doanh số bán hàng. Đối với Việt nam, kết quả khảo sát này cho thấy 77% doanh nghiệp vừa và nhỏ trên Facebook cho biết họ đã tăng doanh số bán hàng nhờ vào nền tảng này; 76% doanh nghiệp vừa và nhỏ trên Facebook cho biết họ có thể tuyển dụng thêm nhân viên do có sự tăng trưởng nhu cầu kể từ khi gia nhập nền tảng này.
- Năm là, với mô hình kinh tế chia sẻ, các hoạt động giao dịch trên thị trường có tính chất điển hình là thông qua các công cụ internet. Do vậy, không gian thị trường được mở rộng không biên giới thông qua mạng internet kết nối với các đối tác, khách hàng trên toàn cầu.
c. Tác động thúc đẩy tính cạnh tranh và minh bạch của thị trường
Sự phát triển các loại hình kinh tế chia sẻ góp phần làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường giữa một bên là chủ thể kinh doanh đầu tư theo kiểu truyền thống và một bên là mô hình kinh tế chia sẻ. Mô hình kinh tế chia sẻ là một sân chơi hấp dẫn cho thị trường đầu tư phát triển đô thị thông minh với các công trình xây dựng kết hợp kiểu văn phòng - khách sạn thông minh. Chính sự đầu tư phát triển các căn hộ thông minh, văn phòng thông minh đã gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Điều này đã tạo áp lực cạnh tranh cho các nhà đầu tư, họ cần đáp ứng đầy đủ cho các nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Đồng thời, kinh tế chia sẻ cũng tạo hiệu ứng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để tăng sức cạnh tranh về đầu tư phát triển đô thị thông minh tại các tỉnh, thành phố trung ương của Việt Nam.
3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện đầu tư phát triển đô thị thông minh đối với tác động của mô hình kinh tế chia sẻ ở Việt Nam
Mô hình kinh tế chia sẻ có tác động mạnh mẽ đến đầu tư phát triển các khu đô thị thông minh và xây dựng văn phòng - khách sạn thông minh. Tác giả đề xuất một số giải pháp cần đột phá trong thời gian tới:
- Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống luật pháp để quản lý kinh tế chia sẻ, quy định rõ trách nhiệm giữa các bên, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với mô hình kinh tế chia sẻ liên quan đến việc xây dựng văn phòng - khách sạn thông minh.
Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin và dữ liệu giữa các bộ, ngành với chính quyền các cấp, các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác. Ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp cùng các phương pháp đánh giá để phổ biến rộng rãi, nhằm phục vụ quản lý nhà nước về kinh tế chia sẻ, phục vụ hoạt động giám sát, đánh giá của cộng đồng về chất lượng dịch vụ, bảo vệ khách hàng trong dịch vụ này.
- Thứ hai, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chia sẻ và doanh nghiệp kinh doanh truyền thống; giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, cần có chính sách tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp truyền thống chuyển đổi hình thức đầu tư, kinh doanh; giải quyết các vấn đề về lao động, việc làm, an sinh xã hội nảy sinh, khi khu vực kinh doanh truyền thống bị thu hẹp thị phần trong cạnh tranh với các loại hình kinh doanh chia sẻ.
- Thứ ba, tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư của nhà nước vào lĩnh vực đổi mới sáng tạo, phát triển công nghệ, ưu tiên đầu tư nghiên cứu phát triển các nền tảng công nghệ, nhất là các nền tảng công nghệ lớn đặt ở trong nước để từng bước nâng cao năng lực độc lập tự chủ về công nghệ của nền kinh tế. Qua đó, giảm dần lệ thuộc của nền kinh tế vào các nền tảng công nghệ lớn đặt ở nước ngoài, giảm thiểu các rủi ro; xây dựng các chính sách tạo chủ động phát triển kinh tế chia sẻ trong đầu tư phát triển đô thị thông minh hiện nay.
Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, ưu tiên tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp cung cấp nền tảng, hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ trong nước phát triển tạo lập các nền tảng số, hỗ trợ số hóa ở cấp độ doanh nghiệp và toàn nền kinh tế.
Tạo dựng cơ chế cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ mới, đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo theo mô hình kinh tế chia sẻ. Có chính sách cho phép thử nghiệm trong phạm vi hẹp có thời hạn đối với hoạt động cung cấp nền tảng có tính mới; kích thích tính mới, tính sáng tạo của hoạt động doanh nghiệp công nghệ, doanh nghiệp cung cấp nền tảng; khuyến khích khai thác lợi thế chia sẻ kết nối, lợi thế công nghệ 4.0.
- Thứ tư, nâng cao năng lực độc lập, tự chủ về công nghệ, phát triển nhanh các công nghệ nền tảng, nhất là các công nghệ nền tảng lớn, giảm dần lệ thuộc của nền kinh tế vào các nền tảng công nghệ lớn ở nước ngoài.
Tăng cường quản lý, giám sát để phòng chống hiệu quả nguy cơ rửa tiền, tài trợ khủng bố; đồng thời kiềm chế và kiểm soát các rủi ro liên quan đến bảo mật thông tin, sử dụng trái phép thông tin cá nhân. Triển khai đồng bộ các biện pháp bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và đảm bảo an ninh mạng.
Thực hiện nghiêm các quy định của Luật an ninh mạng (2018), theo đó, thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là tài nguyên từ hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia đều phải đặt dưới dự kiểm soát và quản lý của Nhà nước. Các công ty cung cấp dịch vụ intermet trực tuyến xuyên quốc gia, các công ty cung cấp nền tảng kết nối, các nhà kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ phải xử lý, lưu trữ thông tin trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, công khai kỹ thuật thu thập và xử lý thông tin, nghiêm cấm cung cấp thông tin của cá nhân, tổ chức Việt Nam cho bên thứ ba.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động trên không gian mạng. Các đơn vị, tổ chức cung cấp dịch vụ mạng phải yêu cầu người sử dụng đăng ký thông tin cá nhân để phục vụ công tác quản lý nhà nước; xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia.
Xây dựng hạ tầng thanh toán số quốc gia theo hướng đồng bộ, thống nhất, dùng chung. Quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hình thức thanh toán trực tuyến qua biên giới.
Nghiên cứu triển khai ứng dụng các bộ công cụ cho phép thống kê các giao dịch điện tử, làm tiền đề cho việc thu thuế.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp cung cấp nền tảng xuyên biên giới hoạt động theo mô hình kinh tế chia sẻ, nhất là đối với các mô hình kinh doanh với nền tảng phi tập trung (như Airbnb) để sớm hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối với các loại hình kinh tế cơ sở. Nghiên cứu xây dựng các trạm biên phòng, hải quan điện tử để kiểm soát các luồng hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới. Quy định mọi giao dịch thanh toán xuyên biên giới đều phải thông qua cổng thanh toán quốc gia, đơn vị cung cấp và vận hành do Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động; chủ động ứng phó nguy cơ bị nước ngoài “thâu tóm” thị trường các loại hình kinh tế chia sẻ trong nước.
Tổ chức nắm tình hình việc các tập đoàn, tổ chức tài chính nước ngoài đầu tư và mua lại cổ phần tại các doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh tế chia sẻ trong nước.
Nghiên cứu xây dựng các rào cản kỹ thuật để hạn chế việc nước ngoài “thâu tóm” các doanh nghiệp công nghệ lớn, các doanh nghiệp cung cấp nền tảng lớn trong nước. Chủ động lựa chọn các doanh nghiệp trong nước đóng vai trò mũi nhọn trong các loại hình kinh tế chia sẻ quan trọng, để đầu tư vốn, công nghệ và nhân lực nhằm tạo ra những doanh nghiệp trong nước mạnh, có sức cạnh tranh cao trên thị trường kinh tế chia sẻ trong nước. Xây dựng và triển khai lộ trình đầu tư khoa học, nhất quán, mang tính dài hạn.
- Thứ năm, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thị trường lao động liên quan đến phát triển từng loại hình kinh tế chia sẻ (quản lý, khai báo về lao động tham gia các loại hình kinh tế chia sẻ, nghĩa vụ về thực hiện chính sách bảo hiểm…) để các hoạt động theo đúng quy định và kiểm soát chặt chẽ tại Việt Nam.
Đặc biệt, cần quy định rõ trách nhiệm giữa các bên trong kinh tế chia sẻ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động khi tham gia mô hình kinh doanh này. Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy Nhà nước nói chung và quản trị thị trường lao động nói riêng để khuyến khích và quản lý sự phát triển các hoạt động kinh tế chia sẻ.
Cần có những chính sách hướng dẫn các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có trách nhiệm bảo mật thông tin (không cung cấp thông tin cho bên thứ ba ngoại trừ có yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và người có thông tin cho phép) và tuyên truyền nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc bảo mật thông tin cá nhân của người khác.
Xây dựng cơ chế để các bên hoạt động kinh tế chia sẻ có thể kiểm soát được việc sử dụng thông tin của các nền tảng, các doanh nghiệp sử dụng dữ liệu cá nhân, tổ chức của mình theo đúng thỏa thuận giữa các bên; tăng cường nhận thức của các bên trong nền kinh tế chia sẻ, bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động và toàn thể nhân dân. Mô hình kinh tế chia sẻ là mọi người xây dựng niềm tin thông qua một mô hình cho phép các giao dịch trên môi trường mạng để thu được những lợi ích của việc chia sẻ và việc xếp hạng đánh giá ngang hàng, xác thực và trách nhiệm của bên thứ ba. Bảo hiểm là cách phổ biến nhất để thiết lập sự tin tưởng như vậy giữa người dùng và nền tảng cũng như trong số những người dùng.
- Thứ sáu, rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến quan hệ lao động cả trên phương diện kỹ thuật, luật pháp cũng như trong khâu tổ chức thực hiện.
Tăng cường hơn nữa các quy định về cơ chế giám sát các doanh nghiệp cung cấp nền tảng, làm cho hoạt động của các doanh nghiệp nền tảng hợp pháp và chuẩn hóa hơn, sửa đổi hệ thống an sinh xã hội để duy trì sự ổn định của quan hệ lao động.
Tăng cường đối thoại xã hội thực chất và thương lượng tập thể thực chất, nhằm giải quyết các vấn đề nảy sinh từ quan hệ lao động trong phát triển các loại hình kinh tế chia sẻ. Bởi lẽ, chỉ khi mục đích của chính đại diện người lao động và đại diện người sử dụng lao động cùng chia sẻ trách nhiệm và quan điểm về phát triển việc làm bền vững, họ mới có thể tìm thấy tiếng nói chung, giúp giải quyết các thách thức đặt ra của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngay từ khi nó còn chưa tác động mạnh đến doanh nghiệp và cả khi có tác động hiện hữu trong tương lai không xa.
Đây cũng là giải pháp góp phần hạn chế những rủi ro liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người lao động và phòng ngừa việc trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật của doanh nghiệp cung cấp nền tảng đối với người lao động trong mô hình kinh tế chia sẻ. Cần chủ động xây dựng điều chỉnh loại hình kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ. Việc này là để giải quyết các tác động ngoại ứng của mô hình kinh tế chia sẻ đối với nhu cầu huy động vốn đầu tư, từ ngân sách nhà nước cho phát triển nền kinh tế trong tương lai, để giải quyết các vấn đề về môi trường.
Về nguyên tắc, cơ sở tính thuế đối với các loại hình kinh doanh chia sẻ gồm phấn đấu giống như cơ sở tính thuế đối với các loại hình kinh doanh truyền thống và cộng thêm một lượng giá trị nhất định để tạo nguồn vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư trong tương lai. Khi kinh tế chia sẻ phát triển ở quy mô lớn, làm phát sinh các khoản đầu tư lớn vào công nghệ xử lý chất thải điện tử. Đây là lĩnh vực hoạt động không hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân trong, ngoài nước, phải sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
- Thứ bảy, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (Luật số 59/2010/QH12 ngày 17/11/2010 của Quốc hội). Trong đó, cần rà soát, đánh giá để mở rộng phạm vi điều chỉnh, bổ sung rõ trách nhiệm của các bên liên quan đến quyền lợi của người tiêu dùng trong tham gia thị trường kinh tế chia sẻ. Đồng thời, bổ sung các quy định, nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ liên quan đến người tiêu dùng của các bên tham gia hoạt động trên thị trường kinh tế chia sẻ.
Vấn đề hợp tác quốc tế về tư pháp nhằm hạn chế rủi ro, giải quyết các tranh chấp giữa người cư trú và người không cư trú khi thực hiện các giao dịch xuyên biên giới theo mô hình kinh tế chia sẻ, liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cũng cần được nghiên cứu, giải quyết. Người tiêu dùng khi tham gia giao dịch trên thị trường kinh tế chia sẻ sẽ gặp nhiều rủi ro và dễ bị tổn thương hơn nhiều so với tham gia giao dịch trên thị trường kinh tế truyền thống, nhất là khi xảy ra các tranh chấp, nên cần được Nhà nước bảo vệ.
- Thứ tám, nghiên cứu việc sử dụng các công cụ chính sách tiết chế xả thải ra môi trường của hệ thống kinh tế chia sẻ, như: thuế, phí, giá cả dịch vụ, quỹ tài chính trong các quy định kinh doanh và quản lý hoạt động kinh doanh của một số loại hình kinh tế chia sẻ có khả năng làm gia tăng phát thải CO2, chất thải xây dựng, chất thải điện tử, như kinh doanh dịch vụ vận tải trực tuyến, kinh doanh dịch vụ chia sẻ phòng ở…
Nghiên cứu cơ chế, chính sách thử nghiệm về triển khai và ứng dụng các công nghệ mới về tái chế chất thải điện tử. Nghiên cứu các giải pháp để giải quyết các vấn đề môi trường như chất thải điện tử, xây dựng, sinh hoạt, phát thải CO2 do tác động của kinh tế chia sẻ.
Khuyến khích những sáng kiến chia sẻ có tiềm năng đóng góp cho cải thiện môi trường, xử lý rác thải điện tử, đầu tư tạo ra công nghệ xử lý rác thải điện tử; khuyến khích các sáng kiến chia sẻ có thể góp phần đẩy nhanh sự phát triển sản xuất và sử dụng các loại xe tự hành, các loại xe ứng dụng công nghệ 4.0, trước hết là ở các đô thị, sẽ góp phần giảm phát thải CO2 ở các đô thị…
4. Kết luận
Mô hình kinh tế chia sẻ có tác động mạnh mẽ đến loại hình xây dựng căn hộ thông minh cho thuê, tổ hợp văn phòng - khách sạn thông minh cho các đối tác đầu tư xây dựng cũng như các khách hàng tiềm năng là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện tốt quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ, Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát loại bỏ các văn bản quy định không phù hợp nhằm hỗ trợ thúc đẩy kinh tế cơ sở trong lĩnh vực hợp văn phòng - khách sạn thông minh, căn hộ thông minh cho thuê…có chương trình kế hoạch cụ thể, báo cáo Thủ tướng và đề ra những định hướng phát triển trong thời gian tới.