• Thị trường xi măng đang có nhiều biến chuyển liên quan đến sản xuất. Sản xuất gạch với công nghệ xanh đang là đích đến của nhiều doanh nghiệp trên toàn thế giới. Sản lượng của các nước cũng đã thay đổi. Các nhà sản xuất tại Việt Nam cũng đang tích cực cho một nền sản xuất thân thiện môi trường dẫn đầu là Vicem – nhà sản xuất xi măng số 1 Việt Nam.

  • Theo quy định tại khoản 2 Điều 35 Nghị định 68/2019/NĐ-CP ngày 14/8/2019 của Chính phủ về lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm công bố giá vật liệu xây dựng, đơn giá nhân công xây dựng, giá ca máy, giá thuê máy và thiết bị thi công, chỉ số giá xây dựng phục vụ lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng trên địa bàn.

  • Biển đảo có vai trò quan trọng với mọi quốc gia, cả với các quốc gia không có biển. Với nước ta, bờ biển dài hơn 3.260 km chưa kể bờ biển của các hải đảo, thì biển đảo càng quan trọng hơn nhiều. Phát triển quốc phòng, phát triển kinh tế, phát triển giao lưu quốc tế, thậm chí còn giúp đỡ nước láng giềng không có biển trong các hoạt động giao thông xuất nhập khẩu. Khai thác tài nguyên biển, đầu tư xây dựng đảo, xây dựng và khai thác các bãi biển… là các hoạt động mang tính thường xuyên cả ngày lẫn đêm. Nói đến kinh tế biển người ta thường nghĩ đến việc khai thác, nhưng loài người còn biết được tác dụng của nhiều loại virus đã cấp cho trái đất một lượng oxy đủ lớn hàng ngày. Người ta tính một nửa oxy cho sự sống trên trái đất là từ biển. Để phát huy tiềm năng của biển, đảo, vùng bờ biển, con người phải đầu tư xây dựng. Ngoài việc xây dựng hệ thống tàu bè thì cần xây dựng các kết cấu hạ tầng. Tất cả phần xây dựng đó đều có liên quan đến vật liệu và vật liệu xây dựng. Vật liệu xây dựng để xây các công trình phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng. Điều chung nhau của xây dựng công trình quốc phòng là cần vật liệu xây dựng bền trong nước biển, bền trong khí hậu biển, chịu được tác động của muối, của gió bão và không có hại đối với môi trường biển, không giết chết san hô, tảo biển và các loại hải sản, phù du. Vật liệu và cấu kiện bên trong môi trường biển đảo không chỉ về cơ học, lý học, sinh học, chịu được ăn mòn, chịu được tác động của sóng, gió, bão, sự ăn mòn của một số loài sinh sống trên biển. Núi đá vôi trên biển bị bào mòn sâu ở khu vực mặt nước bởi sóng, nhưng một phần do sự gặm nhấm của loài hà biển.

  • 1. Giới thiệu chung

    Vật liệu cốt sợi thủy tinh Polyme có những tính năng vượt trội về cường độ, khả năng chống ăn mòn dùng để thay thế một phần hoặc toàn bộ cốt thép trong các cấu kiện, công trình xây dựng đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng. Cốt sợi thủy tinh Polyme thường dùng với ký hiệu GFRP viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh “Glass Fiber Reinforced Polymer”. Với tính chất khoáng muối, axit và không bị ảnh hưởng bởi hầu hết các loại hóa chất GFRP thích hợp cho các công trình ở môi trường ô nhiễm, xâm thực hay nhiễm mặn. Ở nước ta vật liệu này là mới nhưng có tiềm năng ứng dụng rất lớn bởi lẽ số lượng, quy mô các công trình ở các vùng biển, đảo mới bắt đầu phát triển cũng như yếu tố lợi thế về giá thành GFRP trên thị trường Việt Nam quy đổi tương đương cốt thép có cùng khả năng chịu lực. Tuy nhiên, việc sử dụng vật liệu này trên thực tế còn rất hạn chế bởi nhiều lý do trong đó có sự quan ngại của chủ đầu tư về việc tăng giá trị dự toán khi dùng vật liệu mới. Bài viết thông qua những nội dung phân tích kinh tế kỹ thuật của việc sử dụng cốt sợi GFRP thay thế cốt thép và kết quả tính toán cụ thể ở một số công trình cho thấy những hiệu quả kinh tế mang lại là đáng kể.

  • Tóm tắt: Vành đai xanh tuy là phương thức quy hoạch hiệu quả nhằm ngăn chặn sự phát triển lan tỏa của đô thị nhưng cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực như: phát triển nhảy vọt; giảm diện tích đất phát triển; giá đất tăng cao…Ngoài ra, dân số gia tăng khiến các đô thị phải đối mặt với cách thức tăng trưởng (tăng nhu cầu nhà ở, mật độ và lượng tiếp cận tới trung tâm đô thị…) Do đó, các đô thị buộc phải hủy bỏ vành đai xanh hoặc điều chỉnh chính sách vành đai xanh linh hoạt hơn. Nghiên cứu này phân tích chính sách vành đai xanh truyền thống để làm nổi bật tác động tiêu cực của các vành đai xanh. Tác giả cũng xem xét chính sách chuyển đổi của một số đô thị điển hình, rút ra kinh nghiệm duy trì vành đai xanh cho các nước đang phát triển; từ đó, áp dụng để giải quyết các vấn đề hiện tại của đô thị Hà Nội.

  • Đặc trưng cơ lý và chất lượng sơn phủ là hai tiêu chí cơ bản quyết định chất lượng của ngói xi măng màu. Các tiêu chí này được xác định trên cơ sở các Tiêu chuẩn biên soạn cho ngói xi măng màu. Một số cơ sở sản xuất và công ty thương mại được quảng bá sản phẩm một cách tùy tiện, không theo bất kỳ tiêu chuẩn nào, thậm chí còn đưa ra các tiêu chí không phù hợp cho ngói với công năng là sản phẩm lợp và vật liệu kiến trúc. Vấn đề này dẫn tới sự cạnh tranh không lành mạnh, gây hiểu lầm và thiệt hại cho người tiêu dùng. Bài viết này làm rõ các phương pháp đánh giá chất ngói xi măng màu như là vật liệu lợp và hoàn thiện cho các công trình xây dựng.

  • Việt Nam là một đất nước đang phát triển. Hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị của Việt Nam chưa thực sự tốt. Đây cũng chính là cơ hội để phát triển thành phố thông minh (Smart City) tại Việt Nam trong thời gian tới.

  • Cho đến nay, chuyên ngành Kiến trúc cảnh quan vẫn thường bị nhiều người hiểu lầm là chỉ liên quan đến thiết kế vườn cảnh, cũng có một số ý kiến lại cho rằng nó đồng nghĩa với thiết kế đô thị. Hiện nay, hầu hết các sinh viên chuyên ngành Kiến trúc cảnh quan vẫn chưa hiểu rõ vai trò và mục tiêu chính ngành học của mình. Quả thật các mối quan hệ này có sự gần gũi và những điểm tương đồng nhất định. Nhưng thực chất Thiết kế cảnh quan lại có phạm vi rộng và có tính chất bao trùm hơn rất nhiều, có thể nói đó là 1 chuyên ngành rộng nhất liên quan đến việc xây dựng môi trường sống cho con người hài hòa thiên nhiên.

  • Mặc dầu còn những ý kiến khác nhau về vấn đề xuất khẩu xi măng, clinker của Việt Nam, nhưng nhìn vào bức tranh tiến độ đầu tư phát triển ngành không thể không đánh giá các bước phát triển ngoại mục đó. 

  • Đất sét, đặc biệt là đất sét dẻo được loài người sử dụng từ rất lâu đời, chủ yếu được sử đụng để sản xuất đồ gia dụng như ấm chén, bát đã, chum vại… và sản xuất gạch đất sét nung. Theo sự phát triển của xã hội và công nghệ, đất sét được dùng ngày càng nhiều trong sản xuất sứ vệ sinh, sứ kỹ thuật, gạch ốp lát, gạch granite nhân tạo, gạch cotto… Sự tăng trưởng trong tiêu thụ đất sét không chỉ do tăng trưởng chủng loại sản phẩm mà còn do sự tăng trưởng đột biến về khối lượng, chủ yếu tạo ra sản phẩm cho công cuộc đô thị hóa toàn cầu. Trước đây, khi nói đất sét ở Việt Nam, người ta thường quan tâm đến sét trắng, sét dẻo Trúc Thôn, sét Kim Sen, sét Đông Nai…ngày nay các mỏ sét đang dần cạn kiệt mà công nghiệp sản xuất vẫn cần nguyên liệu. Đây là bài toàn cần lời giải vừa cho lâu dài, vừa cho trước mắt. 

  • Công nghệ sản xuất và sản phẩm vật liệu xây không nung (VLXKN) đã hình thành và phát triển từ rất lâu, nhưng ở nhiều nước VLXKN bắt đầu phát triển mạnh mẽ vào những năm 60 của thế kỷ trước. Sự phát triển mạnh đến mức, ngày nay, người ta không còn bàn cãi đến việc thay thế gạch đất sét nung nữa. Điều mà các nhà nghiên cứu, các chuyên gia tư vấn quan tâm là nghiên cứu cải tiến công nghệ, cải tiến mẫu mã sản phẩm, nghiên cứu sử dụng nguyên liệu thay thế.

Tìm theo ngày :