1. Đặt vấn đề
Hiện nay, trên thế giới, phát triển bền vững đang là mục tiêu vô cùng quan trọng. Mục tiêu phát triển bền vững luôn được tiến hành song song với các mục tiêu phát triển khác. Hội nghị thượng đỉnh trái đất về Môi trường và phát triển (1992) tại Rio de Janero (Brazil) đã thông qua rất nhiều văn kiện quan trọng, trong đó nổi bật nhất là tuyên bố về Môi trường và Phát triển với 27 nguyên tắc chung về phát triển bền vững và Chương trình nghị sự 21 toàn cầu (Agenda 21) về phát triển bền vững. Việt Nam đã tích cực tham gia vào các chương trình phát triển bền vững trên thế giới và đã ký kết nhiều văn kiện quan trọng, đặt nền móng cho phát triển bền vững như: Công ước Marpol về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển; Công ước BASEL về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các chất thải nguy hại và loại bỏ chúng; Tuyên ngôn quốc tế của Liên hợp quốc về sản xuất sạch hơn…
Ngành công nghiệp xây dựng là nền tảng và là cơ sở cho sự phát triển của các nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới, điều này cũng không ngoại lệ ở Việt Nam. Trong những năm qua, là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam có nhu cầu rất lớn về cơ sở vật chất phục vụ quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Do đó, rất nhiều dự án đầu tư xây dựng, ở mọi khu vực kinh tế khác nhau được triển khai và hoàn thành.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư xây dựng có phạm vi rất rộng, phức tạp, đặc thù riêng và liên quan nhiều đến Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch, Luật Đấu thầu, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Nhà ở và quy định về quản lý đô thị…Vì vậy rất cần sự quản lý kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm an toàn công trình, tính mạng và tài sản của người dân, bảo đảm hiệu quả quản lý sử dụng vốn, chống lãng phí, thất thoát hướng đến sự phát triển bền vững.
2. Khái niệm về phát triển bền vững
Năm 1987, báo cáo của Brundtland lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “phát triển bền vững” như một giải pháp thay thế cho hệ thống kinh tế được thực hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và không giống như hệ thống đó, tìm cách đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến tương lai của các thế hệ tương lai. Theo “Báo cáo Brundtland” của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED) của Liên hợp quốc, phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn thương đến khả năng của các thế hệ tương lai, đáp ứng các nhu cầu của họ.
Tầm quan trọng của phát triển bền vững: (1) Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sẵn có và hướng tới duy trì cân bằng sinh thái; (2) Chống suy thoái môi trường, chú trọng bảo vệ môi trường; (3) Chống khai thác quá mức tài nguyên.
5 năm sau, Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và phát triển tổ chức tại Rio de Janeiro vào tháng 6/1992 đã xác định ý tưởng này một cách chi tiết hơn và thiết lập một kế hoạch hành động chi tiết, Chương trình Nghị sự 21, trong đó đặt ra 3 lĩnh vực mà chính quyền toàn cầu, quốc gia và địa phương phải thực hiện để thiết lập sự phát triển bền vững đó. Ý tưởng chung là mỗi chính quyền địa phương có thể vạch ra chiến lược của riêng mình với mục đích đạt được sự phát triển bền vững toàn cầu vào năm 2000 (thế kỷ XXI)
Các mục tiêu của phát triển bền vững đó là:
(1) Tăng trưởng kinh tế: Nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển bền vững và đúng hướng.
(2) Bảo vệ môi trường: Mục tiêu này tập trung vào sự đóng góp của con người đối với bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bằng cách giảm thiểu ô nhiễm và chất thải, đồng thời hướng tới việc giảm lượng khí thải carbon toàn cầu.
(3) Hòa nhập xã hội: Mục tiêu này tập trung vào việc cung cấp cơ sở vật chất về nhà ở cho các thế hệ tương lai và hỗ trợ tạo ra các cộng đồng toàn cầu lành mạnh, mạnh mẽ và sôi động.
Nguyên tắc phát triển bền vững, đó là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa 3 yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể:
- Công bằng xã hội: bao gồm các khía cạnh như giáo dục, y tế, an toàn cá nhân và giải trí. Mục đích là để duy trì sự gắn kết xã hội và liên quan đến việc tôn trọng môi trường và các nguồn lực kinh tế của địa điểm.
- Tính khả thi về kinh tế: một hệ thống sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của xã hội đó mà không gây nguy hiểm cho tài nguyên thiên nhiên và phúc lợi của các thế hệ tương lai. Do đó, ứng dụng đó sẽ liên quan chặt chẽ đến nhu cầu của giới hạn dân số và môi trường.
- Bảo vệ môi trường: để khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không làm cạn kiệt chúng và góp phần phục hồi chúng cho các mục đích sử dụng tiếp theo, cần có biện pháp bảo vệ môi trường đặc biệt, như đã xảy ra trong các trường hợp trước, cũng phải tính đến nhu cầu của người dân và các nguồn lực kinh tế của xã hội mà chúng được áp dụng.
3. Quản lý dự án đầu tư xây dựng theo hướng bền vững
3.1. Dự án đầu tư xây dựng
Dự án đầu tư xây dựng là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc sử dụng vốn để tiến hành hoạt động xây dựng để xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo công trình xây dựng nhằm phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong thời hạn và chi phí xác định. Ở giai đoạn chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng, dự án được thể hiện thông qua Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng, Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.
Dự án đầu tư xây dựng được phân loại theo quy định tại Điều 49 của Luật Xây dựng năm 2014 được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 8 Điều 1 của Luật số 62/2020/QH14, được quy định chi tiết nhằm quản lý các hoạt động xây dựng theo quy định Nghị định 15/2021/NĐ-CP, cụ thể:
(1)Theo công năng phục vụ của dự án, tính chất chuyên ngành, mục đích quản lý của công trình thuộc dự án, dự án đầu tư xây dựng được phân loại như sau:
- Dự án đầu tư xây dựng công trình dân dụng;
- Dự án đầu tư xây dựng công trình công nghiệp
- Dự án đầu tư xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật
- Dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông
- Dự án đầu tư xây dựng công trình quốc phòng, an ninh
- Dự án đầu tư xây dựng có công năng phục vụ hỗn hợp
(2) Theo nguồn vốn sử dụng, hình thức đầu tư, dự án đầu tư xây dựng được phân loại gồm: dự án sử dụng vốn đầu tư công, dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công, dự án PPP và dự án sử dụng vốn khác. Dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn hỗn hợp gồm nhiều vốn nêu trên được phân loại để quản lý theo các quy định tại Nghị định này như sau:
- Dự án sử dụng vốn hỗn hợp có tham gia của vốn đầu tư công được quản lý theo quy định của dự án sử dụng vốn đầu tư công; dự án PPP có sử dụng vốn đầu tư công được quản lý theo quy định của pháp luật về PPP;
- Dự án sử dụng vốn hỗn hợp bao gồm vốn nhà nước ngoài đầu tư công và vốn khác: trường hợp có tỷ lệ vốn nhà nước ngoài đầu tư công lớn hơn 30% hoặc trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư thì được quản lý theo các quy định đối với dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công; trường hợp còn lại được quản lý theo quy định đối với dự án sử dụng vốn khác.
(3) Trừ trường hợp người quyết định đầu tư có yêu cầu lập Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng, dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ cần yêu cầu lập Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng gồm:
- Dự án đầu tư xây dựng sử dụng cho mục đích tôn giáo;
- Dự án đầu tư xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng (không bao gồm tiền sử dụng đất);
- Dự án đầu tư xây dựng có nội dung chủ yếu là mua sắm hàng hóa, cung cấp dịch vụ, lắp đặt thiết bị công trình hoặc dự án sửa chữa, cải tạo không ảnh hưởng đến an toàn chịu lực công trình có giá trị chi phí phần xây dựng dưới 10% tổng mức đầu tư và không quá 05 tỷ đồng (trừ dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư)
3.2. Mối quan hệ giữa phát triển bền vững và dự án đầu tư xây dựng
Các dự án đầu tư xây dựng tạo nên môi trường nhân tạo cho con người từ việc tạo ra các sản phẩm xây dựng, bao gồm công trình nhà cửa, hạ tầng, các công trình kỹ thuật và các công trình khác. Môi trường nhân tạo này là một phần môi trường sống của con người, vì thế chúng có ảnh hưởng lớn đến điều kiện sống, phúc lợi và sự phát triển của chúng ta, thông qua đó có cả các ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến phát triển bền vững. Các dự án xây dựng tạo ra cơ sở vật chất hỗ trợ sự phát triển của xã hội, giúp nâng cao chất lượng sống của con người. Mặt khác, hoạt động xây dựng sử dụng nhiều nguồn lực tự nhiên, theo thống kê ở các nước phát triển, sử dụng đến 50% khối lượng nguyên liệu thô khai thác từ vỏ Trái đất, đến 40% năng lượng (số liệu ước lượng ở các nước châu Âu), đồng thời tạo ra một lượng phát thải khí CO2, gây nhiều tác động tiêu cực đến môi trường cũng như đến chất lượng sống của con người.
Mặc dù tác động đến môi trường là vấn đề được thấy rõ nhất của hoạt động xây dựng, cũng không thể bỏ qua các tác động về mặt kinh tế và xã hội của hoạt động này. Ngành xây dựng được coi là ngành sử dụng nhân công nhiều nhất, đặc biệt là nhân công từ các nước đang phát triển. Mặt khác, ngành xây dựng cũng là ngành được đầu tư nhiều vào bậc nhất của các quốc gia, và cũng như là nơi thành lập và hoạt động của vô số các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế địa phương. Đó là lý do ngành này có ảnh hưởng lớn dến sự phá triển của con người, trong việc cải thiện chất lượng sống cho người nghèo cũng như có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Có thể nói, ngành xây dựng đóng vai trò tạo ra phương tiện để cải thiện chất lượng sống cho con người và cũng là nhân tố tạo nên tính bền vững về mặt môi trường và xã hội của các hoạt động phát triển.
3.3. Quản lý dự án đầu tư xây dựng theo hướng bền vững
Xây dựng bền vững được coi là việc ngành xây dựng thực hiện các hoạt động của mình theo định hướng phát triển bền vững. Định nghĩa xây dựng bền vững như là “việc sáng tạo và quản lý một cách có trách nhiệm môi trường nhân tạo lành mạnh dựa trên các nguyên tắc về sử dụng nguồn lực hiệu quả và nguyên tắc về sinh thái”. Tuy nhiên, nội dung xây dựng bền vững được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mỗi quốc gia. Việc thống nhất một khái niệm xây dựng bền vững để sử dụng chung, do đó, là không thực tế. Có một số nước lại không coi đây là các nội dung chính. Đa số các nước nhấn mạnh vào các tác động về mặt sinh thái đối với môi trường (đa dạng về sinh thái, khả năng có thể khai thác tự nhiên và các nguồn lực) nhưng vấn đề đói nghèo, kém phát triển hoặc công bằng xã hội đôi khi cũng được coi là một nội dung cần giải quyết của “xây dựng bền vững”. Tương tự, các đặc điểm về mật độ và nhân khẩu học, nền kinh tế quốc gia và tiêu chuẩn sống, đặc điểm địa lý và các thảm họa tự nhiên, đất đai và nước có thể sử dụng, việc sản xuất và cung ứng năng lượng, cơ cấu của ngành xây dựng hoặc chất lượng của các công trình hiện tại, tất cả đều có thể trở thành một nội dung trong khái niệm xây dựng bền vững của một quốc gia.
Xu hướng hướng tới sự bền vững trong ngành xây dựng được thúc đẩy bởi một số yếu tố bao gồm nhận thức toàn cầu ngày càng tăng về nhu cầu bảo vệ môi trường, các quy định chặt chẽ hơn của chính phủ và mong muốn tiết kiệm chi phí đầu tư.
Quản lý dự án đầu tư xây dựng theo hướng bền vững là thực hành kết hợp các kỹ thuật thiết kế, vật liệu và công nghệ thân thiện với môi trường vào quá trình đầu tư xây dựng. Quản lý phát triển dự án đầu tư xây dựng bền vững xem xét toàn bộ vòng đời của một dự án, từ quy hoạch và xây dựng đến vận hành và bảo trì.
Một số lợi ích quản lý dự án đầu tư theo hướng bền vững:
- Giảm thiểu việc sử dụng các nguồn năng lượng và việc làm suy kiệt các nguồn lực tự nhiên dẫn đến giảm chi phí đầu tư.
- Bảo tồn các khu vực tự nhiên và sự đa dạng sinh thái;
- Duy trì chất lượng của môi trường nhân tạo và quản lý môi trường sống (trong nhà) lành mạnh.
4. Cơ chế chính sách phát triển dự án đầu tư xây dựng theo hướng bền vững tại Việt Nam
4.1. Kế hoạch hành động quốc gia
Quyết định số 622/QĐ-TTg đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 10/5/2017 về việc Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Đây được coi là căn cứ về mặt pháp lý của Việt Nam cam kết đối với quốc tế trong việc đóng góp trách nhiệm vào những nỗ lực chung của toàn cầu về vấn đề phát triển bền vững. Kế hoạch hành động là “công cụ quan trọng hướng tới tăng trưởng kinh tế cân bằng, hòa nhập xã hội và bảo vệ môi trường tại Việt Nam”, đồng thời cũng nhấn mạnh mối quan hệ chiến lược của Chính phủ Đức với Việt Nam, cụ thể là hỗ trợ Việt Nam thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 trong khuôn khổ Chương trình Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh của Hợp tác Phát triển Việt - Đức và thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Kế hoạch đã đưa ra 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể của Việt Nam, chia làm 2 giai đoạn thực hiện là 2017-2020 và 2021-2030. Kế hoạch nhấn mạnh: phát triển bền vững là cần thiết cho quá trình phát triển của đất nước, là sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia; phát huy vai trò của Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương, kết hợp với khoa học công nghệ là động lực cho phát triển bền vững của đất nước.
Hiện nay, để thực hiện Kế hoạch hành động giai đoạn 2021-2030, nhiệm vụ đặt ra là huy động mọi nguồn lực để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững; hoàn thiện xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho các mục tiêu phát triển bền vững; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở mọi lĩnh vực; tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, nhất là chú trọng công nghệ môi trường, công nghệ sạch, công nghệ năng lượng mới.
4.2. Tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt ngày 01/10/2021 ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Chiến lược đã chỉ rõ tăng trưởng xanh nhằm mục đích đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu. Mục tiêu là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các - bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
Trong các giải pháp Chiến lược đưa ra, có các giải pháp liên quan đến phát triển bền vững như phát triển các ngành kinh tế xanh, phát triển kết cấu hạ tầng bền vững chủ yếu (hạ tầng giao thông, năng lượng, thủy lợi và các công trình xây dựng đô thị), đô thị hóa bền vững. Phát triển đô thị bền vững liên quan đến dự án đầu tư xây dựng bền vững, đó là quy hoạch tổng thể đô thị theo cách tiếp cận đô thị bền vững; hạ tầng kỹ thuật áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả năng lượng và hạ tầng đô thị xanh để nâng cao mực tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính; ban hành quy định ứng dụng công nghệ xanh khi xây dựng công trình; khuyến khích đầu tư và phát triển các khoảng không gian xanh trong các dự án đô thị…
4.3. Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị
Trong quy hoạch, quản lý và phát triển đô thị Chủ trương thực hiện tại Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị. Đến năm 2030 xây dựng được mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối quốc tế và 3-5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế vào năm 2030. Nghị quyết 06-NQ/TW cũng đã đưa ra các giải pháp cho công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị, gồm:
- Hoàn thiện thể chế, chính sách tạo thuận lợi cho quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững.
- Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững.
- Tập trung xây dựng, phát triển hệ thống đô thị quốc gia bền vững và đồng bộ về mạng lưới.
- Đẩy mạnh phát triển nhà ở, hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện tại, liên kết, thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Xây dựng và hoàn thiện mô hình chính quyền đô thị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị và chất lượng cuộc sống đô thị, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh, an toàn và trật tự đô thị.
- Phát triển kinh tế khu vực đô thị; đổi mới cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư phát triển đô thị
4.4. Chuyển đổi số cho phát triển bền vững ngành xây dựng
Chuyển đổi số trong ngành xây dựng đang rất được ưu tiên bởi những giá trị mà ngành xây dựng mang đến cho nền kinh tế. Chuyển đổi số trong ngành xây dựng triển khai các công cụ và công nghệ số khai thác sức mạnh của dữ liệu để làm cho hoạt động hiệu quả, năng suất và an toàn hơn.
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ hình thành nền tảng dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ, rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Ngày 31/7/2020, Bộ Xây dựng đã có Quyết định 1004/QĐ-BXD về việc phê duyệt “Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Xây dựng giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030”
Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Xây dựng giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030 dựa trên quan điểm: Chuyển đổi số ngành xây dựng là nội dung rất quan trọng cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả để góp phần tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa và doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng dịch vụ công của Bộ Xây dựng.
Đối tượng, lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số gồm: Cơ sở dữ liệu số trong đó bao gồm các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức, đơn giá để phục vụ quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng; Thực hiện Chính phủ điện tử Bộ Xây dựng; Hoạt động xây dựng (tư vấn thiết kế; tư vấn thẩm tra, thẩm định; thi công xây lắp; nghiệm thu công trình); Khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng; Quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị và hạ tầng kỹ thuật đô thị; Nhà ở, công sở và thị trường bất động sản.
Mục tiêu của Kế hoạch đặt ra hoàn thiện hệ thống Cơ sở dữ liệu số: văn bản quy phạm pháp luật; tiêu chuẩn, quy chuẩn; định mức và giá xây dựng; nhà ở, thị trường bất động sản; khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng; quy hoạch xây dựng; nâng cấp đô thị; thẩm định dự án, thiết kế và dự toán xây dựng; nghiệm thu các công trình đưa vào sử dụng; thanh tra, kiểm tra; hồ sơ cán bộ, viên chức ngành xây dựng của tổ chức và cá nhân; phòng thí nghiệm chuyên ngành Xây dựng; đề tài, dự án sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học công nghệ và môi trường;
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại chuyển đổi số của ngành Xây dựng vẫn đang trong giai đoạn tạo lập dữ liệu số, hoàn chỉnh các hệ thống thông tin phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và hướng tới cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho người dân, doanh nghiệp. Chưa có bước đột phá trong việc ứng dụng các công nghệ số để thúc đẩy triển khai phát triển Chính phủ số, làm nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số. Việc kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác có liên quan chậm được triển khai.
4.5. Công trình xanh
Phát triển công trình xanh đem lại những lợi ích to lớn đối với kinh tế, xã hội và môi trường. Nhiều quốc gia trên thế giới đã cho thấy việc ứng dụng phát triển công trình xanh sẽ tạo nên nhiều giá trị, đặc biệt tạo sự phát triển bền vững cho xây dựng. Các công trình xanh khi xây dựng thì chi phí có thể cao hơn một chút so với các công trình thông thường, tuy nhiên giá trị công trình xanh đem lại cho cuộc sống lớn hơn nhiều. Lợi ích khi được sống trong một môi trường xanh với nhiều cây xanh, sử dụng những vật liệu thân thiện với môi trường và các thiết bị có hiệu suất cao, tiết kiệm năng lượng, đó là con người được sử dụng những tiện nghi vượt trội và sức khỏe được cải thiện. Bên cạnh đó, các thiết bị tiết kiệm năng lượng sẽ giúp làm giảm các chi phí hóa đơn hàng tháng, cùng với việc góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra, mức tiêu thụ và thu hồi vốn của loại hình công trình xanh cũng nhanh hơn, các khách hàng thường hài lòng với sản phẩm hơn và thương hiệu của các chủ đầu tư cũng được nâng cao hơn. Với những lợi ích mà công trình xanh mang lại, công trình để có thể đạt được là công trình xanh, cần đảm bảo không tác động xấu đến môi trường trong quá trình thiết kế, xây dựng và vận hành. Qua đó, công trình sử dụng các tài nguyên và năng lượng hiệu quả, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Công trình đòi hỏi các yếu tố về tiêu chuẩn kỹ thuật cao, vật liệu bền vững thân thiện với môi trường, kiến trúc bền vững, đáp ứng các tiêu chuẩn LOTUS, LEED… Tuy nhiên, hiện nay số lượng công trình xanh tại Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, chưa thực sự phát triển.
5. Kết luận
Trong những năm gần đây, cùng với tốc độ phát triển kinh tế, ngành xây dựng được chú trọng đầu tư và phát triển mạnh, đặc biệt là đầu tư vào các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình dân dụng, giao thông… Để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả quản lý đầu tư, trong thời gian qua Chính phủ cũng đưa ra các chiến lược và chính sách nhằm giúp cho sự phát triển ngành xây dựng mang tính ổn định và bền vững.
Nguyễn Văn Thành - Sở Xây dựng tỉnh Cao Bằng
Nguồn: Tạp chí Người Xây dựng, Số 377, tháng 9/2023