Có thể nói, giai đoạn 2011-2020 vừa qua, Việt Nam đã thúc đẩy phát triển kinh tế mạnh mẽ cùng với đô thị hóa. Nói cách khác, tốc độ đô thị hóa nhanh thời gian qua cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đô thị hóa đã tạo ra khu vực đô thị với không gian kinh tế được mở rộng và môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hạ tầng phát triển, nguồn lao động dồi dào và thị trường lớn, từ đó tạo điều kiện cho phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, thu hút FDI và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, nâng cao năng suất, chất lượng tăng trưởng kinh tế; Hệ thống đô thị quốc gia cơ bản được phân bố theo mô hình mạng lưới, phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa và quy luật phát triển kinh tế. Hai vùng đô thị lớn (vùng Thủ đô Hà Nội và vùng Thành phố Hồ Chí Minh) ngày càng đóng vai trò là các cực tăng trưởng kinh tế chủ đạo. Các đô thị trung bình và nhỏ được quan tâm đầu tư phát triển trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của tất cả các vùng, liên kết hỗ trợ nhau kể cả khu vực nông thôn, làm cho tất cả các vùng đều phát triển; Tăng trưởng kinh tế đô thị bình quân ở mức 12 -15%/năm, gấp 1,2 đến 1,5 lần tăng trưởng của nền kinh tế. Năm 2020, ước tính kinh tế đô thị đóng góp khoảng 70% GDP cả nước. Trong đó, 5 thành phố trực thuộc Trung ương mặc dù chỉ chiếm 2,9% về diện tích và khoảng 22% về dân số nhưng năm 2020 đã đóng góp tới 46,8% GDP cả nước, thu hút 30% tổng số vốn FDI lũy kế, 32,8% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Năng suất lao động của các thành phố lớn tại Việt Nam cao hơn mức trung bình của cả nước; Tài chính cho phát triển đô thị từng bước được củng cố; số lượng các tỉnh, thành phố tự chủ tài chính tăng lên. Nguồn thu ngân sách của chính quyền đô thị tăng mạnh, đóng góp đáng kể vào hoạt động đầu tư phát triển đô thị và vào nguồn ngân sách của cả nước (trong đó nguồn thu từ đất tăng nhanh, năm 2019 đạt 192 nghìn tỷ đồng gấp gần 2,5 lần năm 2015). Số địa phương tự chủ được ngân sách và điều tiết về ngân sách Trung ương ngày càng tăng, giai đoạn 2007-2010 có 11 địa phương, giai đoạn 2011-2015 có 13 địa phương, giai đoạn 2016-2020 có 16 địa phương.
Đô thị hóa không chỉ chuyển dịch về không gian đô thị, không gian kinh tế mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, kiến tạo hình ảnh đô thị khang trang xanh, sạch đẹp, cuộc sống đô thị văn minh hiện đại và giảm nghèo tại đô thị: Hạ tầng kỹ thuật đô thị và hạ tầng xã hội và hạ tầng số đã được quan tâm đầu tư, tăng quy mô và cải thiện chất lượng phục vụ. Chất lượng sống tại đô thị từng bước được nâng cao, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm; sự phát triển của một số đô thị đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn. Tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị có xu hướng giảm dần, từ mức 4,3% năm 2010 xuống còn 3,1% năm 2019. Trong khu vực đô thị, tỷ lệ hộ nghèo 3% thấp hơn gần ba lần khu vực nông thôn. Tuổi thọ trung bình của cả nước tăng từ 73,3 tuổi năm 2015 lên 73,7 tuổi năm 2020, trong đó các vùng có mức độ đô thị hóa lớn có tuổi thọ bình quân cao hơn các vùng khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, phát triển đô thị Việt Nam cũng còn bộc lộ nhiều vấn đề đã được chỉ ra: (i) Đô thị hóa không đồng đều giữa các vùng, miền; tỷ lệ đô thị hóa còn thấp so với mức trung bình các nước trong khu vực và thế giới, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đô thị hóa phát triển theo chiều rộng là chủ yếu với mật độ thấp và phân tán, gây lãng phí về đất đai, hạn chế tích tụ kinh tế. Tình trạng mật độ thấp, nhất là tại các đô thị đặc biệt, nhiều khu vực nội thành, nội thị vẫn còn 50%-60% diện tích đất nông nghiệp hoặc để trống chưa sử dụng phát triển đô thị do các dự án chậm triển khai; (ii) Đô thị hóa chưa đồng bộ với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc thu hồi đất nông nghiệp cho phát triển công nghiệp trong quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh và quy mô lớn; (iii) Hệ thống đô thị phân bố và phát triển không cân đối, thiếu sự liên kết, chưa có sự phân định và chia sẻ chức năng trong từng vùng và giữa các vùng; liên kết đô thị - nông thôn còn yếu, chưa phát huy tốt vai trò động lực, dẫn dắt của các đô thị trong phát triển kinh tế - xã hội; (iv) Kết quả chỉnh trang, cải tạo, tái thiết đô thị còn nhiều hạn chế (Thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh là nơi chiếm số lượng khu chung cư, nhà chung cư cũ, khu vực đô thị cần cải tạo nhất. Tuy nhiên cải tạo các chung cư cũ chỉ hoàn thành 1,14% so với tổng số nhà chung cư cũ tại Hà Nội và 1% tại Thành phố Hồ Chí Minh). Phát triển các đô thị mới theo mô hình đô thị bền vững, đô thị xanh, đô thị thông minh phát triển còn ít, chưa được nghiên cứu và triển khai phù hợp với từng vùng, miền và loại, cấp đô thị. Các yếu tố văn hóa, cảnh quan đặc thù chưa được chú trọng trong phát triển đô thị; kiến trúc, bộ mặt đô thị còn thiếu bản sắc, thiếu điểm nhấn, tự phát.. (v) Hệ thống hạ tầng đô thị còn thiếu đồng bộ, liên kết yếu, chưa bảo đảm thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và có dấu hiệu quá tải tại các đô thị lớn….. (vi) Ô nhiễm môi trường tại các đô thị lớn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, gây ra nhiều tác động tiêu cực. Kết quả giảm tình trạng bất bình đẳng, bảo đảm an ninh, an toàn đô thị, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ và được bảo vệ của các nhóm dễ bị tổn thương tại đô thị còn hạn chế; (vii) Phát triển kinh tế khu vực đô thị còn phân tán, thiếu tính kết nối và mô hình không gian và công nghiệp kém hiệu quả, phụ thuộc vào FDI; (viii) Các đô thị nhỏ và trung bình chưa phát huy nội lực, động lực phát triển; (ix) Thị trường bất động sản phát triển chưa thực sự ổn định, lành mạnh, còn tình trạng mất cân đối cung – cầu bất động sản. Tình trạng dư thừa nguồn cung nhà ở trung cao cấp trong khi rất thiếu nguồn cung nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá thấp, cho đến nay nhà ở xã hội mặc dù có bước phát triển mạnh mẽ nhưng mới đạt khoảng 41,4% so với mục tiêu đề ra, vốn ngân sách cho nhà ở xã hội chỉ đạt 24% so với nhu cầu vốn trung hạn; (x) Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu trên toàn cầu cũng đang làm trầm trọng hóa các thách thức ở đô thị.
2.Vai trò của đô thị - yêu cầu đổi mới
- Vai trò của đô thị ngày càng được khẳng định trên thế giới và tại Việt Nam.
Hiện nay khu vực đô thị đang là khu định cư của hơn 50% dân số thế giới, và trong tương lai khu vực này sẽ mở rộng lên đến 70%, trở thành khu vực phát triển quan trọng nhất, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng chung về kinh tế, phát triển xã hội và có vai trò tiên quyết trong việc giải quyết các vấn đề thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, rủi ro thiên tai…. Cùng với sự phát triển nói chung của xã hội, khoa học, công nghệ, đô thị đã vượt ra ngoài chức năng truyền thống là nơi định cư an toàn, cung cấp cơ hội việc làm và giảm đói nghèo nhờ vào hệ thống kết nối hạ tầng, các không gian chức năng phù hợp.Có thể nói, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đang đóng góp tích cực cho sự phát triển của các quốc gia, đô thị nói riêng và thế giới nói chung. Các quốc gia phát triển luôn là những quốc gia có thể tận dụng lợi thế tối đa của quá trình đô thị hóa song song với thúc đẩy thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các thành tựu khoa học và kinh nghiệm phát triển đô thị thời gian trước đã và đang tạo cơ hội để đô thị phát triển mạnh mẽ hơn, trong đó hiện nay đô thị được coi là một nguồn lực đổi mới sáng tạo của quốc gia. Lợi thế tập trung nguồn nhân lực chất lượng cao, các chất xám, trung tâm đổi mới sáng tạo, khoa học, công nghệ khiến đô thị có thể tạo ra những giá trị tăng trưởng vượt bậc. Mọi nguồn lực, cơ hội phát triển đều có thể tìm thấy ở đô thị.
Tuy nhiên, bối cảnh phát triển chung cũng đã chỉ ra những điểm hạn chế của phát triển đô thị. Nếu không được quy hoạch, quản lý phát triển hợp lý, đô thị cũng có thể gây ra rất nhiều thách thức tạo áp lực lớn lên cuộc sống của người dân như ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, ngập lụt, nghèo đói, thất nghiệp, xung đột, bất bình đẳng v.v… Diễn đàn Đô thị Thế giới lần thứ 11 tổ chức tại thành phố Katowice Ba Lan với chủ đề Chuyển đổi các thành phó vì một tương lai đô thị tốt đẹp hơn đã thu hút sự quan tâm và đồng thuận từ nhiều quốc gia, đô thị trên thế giới. Với những thách thức đã được chỉ ra tại thực trạng phát triển đô thị Việt Nam như trên, chúng ta đang đứng trước những thách thức đổi mới nhận thức về đô thị, phương pháp quy hoạch, xây dựng, quản lý phát triển đô thị.
- Yêu cầu đổi mới trong phát triển đô thị tại Việt Nam
Tại đại hội XIII của Đảng, chủ trương “lấy các đô thị làm động lực phát triển vùng” được coi là một trong ba đột phá chiến lược của giai đoạn 2021 – 2030, với “trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông đô thị lớn”; “tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị” là một trong những nội dung của định hướng chính phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030. Văn kiện Đại hội cũng đề ra các chỉ tiêu về phát triển đô thị. Trong đó đến năm 2025, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 45%; năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%. Đồng thời, trong báo cáo chính trị của Đại hội xác định các nhiệm vụ: tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; kết nối nông thôn với đô thị; tăng cường quản lý đô thị, phát triển các đô thị vệ tinh, hạn chế xu hướng tập trung quá mức vào các đô thị lớn.
Thực hiện định hướng tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, ngày 24/01/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là Nghị quyết đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo toàn diện nhất về quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị Việt Nam bền vững cho giai đoạn tới. Nghị quyết là một sự khẳng định vai trò, vị thế của đô thị Việt Nam trong bối cảnh mới cùng với những định hướng các nhóm nhiệm vụ giải pháp để thực hiện các chỉ tiêu phát triển đô thị đến năm 2035, tầm nhìn đến 2045. Nghị quyết đưa ra các quan điểm chủ đạo cho phát triển đô thị Việt Nam giai đoạn tới gồm: Nâng cao nhận thức về vai trò vị trí của đô thị Việt Nam để tận dụng lợi thế phát triển; Đô thị hóa là tất yếu và là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội nhanh và bền vững trong thời gian tới; Công tác quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước để đảm bảo sự phát triển hài hòa, cân bằng đồng bộ giữa kết cấu hạ tầng đô thị với tốc độ, quy mô đô thị hóa nhằm đạt được sự phát triển trật tự, ngăn nắp và tạo điều kiện cho phát triển mạnh mẽ; Chú trọng công tác cải tạo tái thiết đô thị trong đó khơi thông nguồn lực phát triển đô thị và phát huy bản sắc đô thị; Phát triển đô thị theo mô hình xanh, thông minh, biến đổi khí hậu để phù hợp với xu thế và hướng đến sự bền vững. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 đạt 45%, đến năm 2030 đạt khoảng 50%. Nghị quyết đề ra 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện các quan điểm và mục tiêu trên.
Trên cơ sở Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 11/11/2022 Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tại Chương trình này, Chính phủ đã cụ thể hóa thành 15 nhóm chỉ tiêu và 33 nhiệm vụ cùng với phân công cơ quan chủ trì, phối hợp thực hiện. Trong đó, cụ thể các chỉ tiêu về quy hoạch (tỷ lệ phủ kín quy hoạch chung, quy hoạch phân khu đô thị 100%), chỉ tiêu thúc đẩy năng lực hạ tầng, giao thông đô thị (tỷ lệ các đô thị loại III trở lên hoàn thành các tiêu chí phân loại đô thị về cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, công trình văn hóa cấp đô thị là 100%; ít nhất 130 đô thị từ loại III trở lên hoàn thiện các tiêu chuẩn hạ tầng đô thị, đầu tư khép kín các đường vành đai, đường xuyên tâm, bến, bãi đỗ xe tại các đô thị; tăng thêm ít nhất 400km2 đất giao thông đô thị), cải tạo không gian đô thị và tạo không gian xanh và không gian công cộng (tỷ lệ các đô thị hiện có và đô thị mới có chương trình cải tạo, chỉnh trang tái thiết và phát triển đô thị: 100%; khoảng 700 phường thuộc đô thị từ loại III trở lên đạt chuẩn, phát triển tăng thêm ít nhất 30 triệu m2 cây xanh tại các đô thị loại III, II, I và 10 triệu m2 cây xanh công cộng tại các đô thị loại đặc biệt), nhà ở bình quân đầu người tại khu vực đô thị đạt tối thiểu 28m2 năm 2025 và 32 m2 năm 2030... phấn đấu đến năm 2035 có 3-5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế, hình thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN.
3.Các giải pháp pháp để thúc đẩy đô thị hóa và phát triển đô thị Việt Nam hướng đến bền vững, thịnh vượng.
Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị đã chỉ ra 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cho hệ thống đô thị Việt Nam giai đoạn tới gồm: nhóm nhiệm vụ về i) hoàn thiện thể chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững; ii) Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững; iii) Tập trung xây dựng, phát triển hệ thống đô thị quốc gia bền vững và đồng bộ về mạng lưới; iv) Đẩy mạnh phát triển nhà ở, hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, liên kết, thích ứng với Biến đổi khí hậu; v) Xây dựng và hoàn thiện mô hình chính quyền đô thị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị và chất lượng cuộc sống đô thị, bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội, an ninh, an toàn và trật tự đô thị; vi) Phát triển kinh tế khu vực đô thị, đổi mới cơ chế chính sách tài chính và đầu tư phát triển đô thị. Cụ thể hóa Nghị quyết này, Chương trình hành động của Chính phủ cũng đã có sự phân công cho các cơ quan, tổ chức có liên quan với những nhiệm vụ cụ thể.
Có thể nói, Nghị quyết của Bộ Chính trị cũng như Chương trình hành động của Chính phủ đã chỉ rõ các điểm nghẽn cần tập trung giải quyết để có thể thúc đẩy quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị Việt Nam thời gian tới, trong đó tập trung vào các vấn đề sau:
a) Thúc đẩy đô thị hóa nhanh trong sự kiểm soát
Đô thị hóa là động lực cho sự phát triển kinh tế, tạo tiền đề cho sự thay đổi về cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng phi nông nghiệp, tạo nhiều công ăn, việc làm cho người dân nhưng nó cũng kéo theo rất nhiều hệ lụy không mong muốn. Đô thị hóa là một xu thế tất yếu và khách quan, tuy nhiên trong quá trình này, cần có sự kiểm soát để phát triển đô thị có thể tận dụng được lợi thế từ đô thị và hạn chế những hệ lụy, thách thức. Bên cạnh việc thúc đẩy mối quan hệ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, quy hoạch hệ thống đô thị nông thôn quốc gia, lập chương trình phát triển đô thị cấp quốc gia, cấp vùng, tỉnh, đô thị là cần thiết.
Thời gian tới quá trình đô thị hóa của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng, đặc biệt các huyện vùng ven của các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM…là các huyện phải chịu áp lực đô thị hóa và công nghiệp hóa mạnh trên vùng đất nông nghiệp, là nơi chịu nhiều áp lực từ việc gia tăng dân số cơ học rất lớn…dẫn đến quá tải về các vấn đề quản lý, trường học và môi trường. Đối với các khu vực chịu tác động mạnh của quá trình đô thị hóa, nhất là khu vực dự kiến sẽ thành quận, thị xã, việc phát triển, xây dựng nông thôn mới tùy từng giai đoạn sẽ không đồng nhất với quá trình phát triển đô thị. Đối với các khu vực này, quá trình đô thị hóa chủ yếu do yếu tố ngoại lực, rất khó chủ động được, việc thực hiện xây dựng nông thôn mới không phù hợp sẽ gây đầu tư lãng phí, không thích ứng với định hướng đô thị hóa trong tương lai. Do đó, cần xây dựng các chính sách phát triển gắn kết phát triển đô thị và phát triển nông thôn, từng bước thu hẹp khoảng cách kinh tế - xã hội giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn. Phát triển đô thị nhỏ (thị trấn), vùng ven đô thị để hỗ trợ phát triển nông thôn thông qua các mối liên kết đô thị - nông thôn.
b) Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị
Quy hoạch đô thị là công cụ quan trọng và nền tảng để tối đa hóa tiềm năng cho việc xây dựng phát triển đô thị hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên, xác định các khu vực phát triển và bảo tồn, tăng cường an ninh, an toàn trong các thành phố/đô thị. Quy hoạch không hợp lý và không được thực thi có thể cản trở sự phát triển chung của đô thị. Tuy nhiên, hiện nay quy hoạch chưa thực sự phát huy hiệu quả của một công cụ định hướng và đầu tư phát triển đô thị. Ngoài việc quy hoạch chưa phủ kín so với tổng diện tích đất xay dựng đô thị (Tính đến tháng 12/2021, tỷ lệ lập quy hoạch chung đô thị đạt 100%; quy hoạch phân khu tại các đô thị loại I, loại đặc biệt đạt khoảng 78%; quy hoạch chi tiết đạt khoảng 39% so với diện tích đất xây dựng đô thị) thì phương pháp thực hiện quy hoạch còn hạn chế (trên cơ sở dữ liệu đầy đủ, công tác dự báo thiếu chính xác, thiếu khoa học) dẫn đến quy hoạch không theo kịp và đáp ứng nhu cầu thị trường và thực tế. Ngoài ra quy hoạch thiếu kết nối với nguồn lực thực hiện nên đã hạn chế hiệu quả định hướng đầu tư… Điều chỉnh quy hoạch còn xảy ra nhiều nơi với quy mô và mức độ khác nhau ở các loại đồ án quy hoạch khác nhau. Việc điều chỉnh thường có xu hướng tăng tầng cao, mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất và giảm diện tích đất công cộng, đất cây xanh dẫn đến tạo áp lực lên hạ tầng kỹ thuật và xã hội đô thị.
Thời gian tới, phương pháp quy hoạch đô thị cần phải có sự đổi mới nhất định theo hướng gắn kết chặt chẽ quy hoạch đô thị với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và các quy hoạch ngành quốc gia; phương pháp quy hoạch tổng hợp, tích hợp, đảm bảo phát triển không gian hợp lý, kiểm soát chặt chẽ phát triển đất đai, dân số, lao động ngoài ra phải gắn kết với nhu cầu thực tế của thị trường, gắn với xu thế đô thị hóa của vùng, địa phương, gắn với nhu cầu đầu tư thị trường, nhu cầu về không gian ở và giao thông, gắn kết với kế hoạch đầu tư, đầu tư công trung hạn và hàng năm, bảo đảm nguồn lực thực hiện và đặc biệt lồng ghép yêu cầu nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống rủi ro hướng đến tăng trưởng xanh, thông minh, tạo điều kiện để cộng đồng tham gia vào quá trình lập quy hoạch cũng như triển khai thực hiện. Trước mắt công tác quy hoạch cần cải thiện chất lượng trên cơ sở căn cứ dữ liệu đầu (thực trạng, nhu cầu) và dự báo khoa học, chính xác; áp dụng công nghệ tiên tiến (như áp dụng GIS- hệ thống thông tin địa lý) vào phân tích, nhận diện vấn đề và ra quyết định hỗ trợ cho lập quy hoạch; bổ sung hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức đơn giá về quy hoạch và đầu tư xây dựng đô thị.
c) Tháo gỡ điểm nghẽn trong hạ tầng kết nối vùng, hạ tầng đô thị, và khơi thông nguồn lực phát triển đô thị từ đây
Trong một thời gian dài, phát triển đô thị Việt Nam tập trung cho những nhu cầu ngắn hạn, phát triển nóng và chưa thực sự quan tâm đến củng cố chất lượng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị. Việc điều chỉnh quy hoạch khá thường xuyên ở nhiều đô thị (thường có xu hướng điều chỉnh tăng mật độ dân số và hệ số sử dụng đất) cũng gây áp lực nhất định lên hệ thống hạ tầng bên cạnh tốc độ gia tăng dân số và quy mô đô thị từ quá trình đô thị hóa nhanh chóng. Điều này khiến hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị chưa đảm bảo và ảnh hưởng chất lượng sống của cư dân đô thị. Trong khi đó, hạ tầng vùng cũng chưa hoàn thiện ảnh hưởng đến kết nối vùng và hiệu quả của hệ thống liên kết đô thị theo mô hình chùm, mạng lưới. Hiện nay Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong đầu tư hạ tầng và chưa có nhiều chính sách thu được lợi ích gia tăng từ việc phát triển hạ tầng chỉnh trang đô thị.
Do vậy, thời gian tới việc chỉnh trang, tái thiết đô thị là nhiệm vụ hàng đầu tại các đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn. Trong công cuộc chỉnh trang, tái thiết này cần quan tâm đến năng lực giao thông, chú trọng xử lý nước thải sinh hoạt và chất thải rắn đô thị, tăng diện tích cây xanh, không gian mở đô thị, đảm bảo an sinh nhà ở và các thiết chế văn hóa thiết yếu khác. Đối với vấn đề hạ tầng giao thông, ưu tiên đầu tư hạ tầng kết nối đặc biệt giao thông vùng, giao thông công cộng sức chở lớn, nhất là giao thông công cộng tại đô thị lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội để khai thác hiệu đầu tàu dẫn dắt quá trình đô thị hóa theo hướng cạnh tranh, sáng tạo, và hội nhập quốc tế. Tạo điều kiện để các đô thị trung tâm thứ cấp (đô thị loại I và một số loại II) tận dụng cơ hội phát triển công nghiệp và dịch vụ cùng với sự cải thiện của mạng lưới hạ tầng giao thông và năng lượng quốc gia. Tận dụng hạ tầng vùng ven đã có tại chỗ tránh phá đi làm lại, phát triển nhỏ gọn hiệu quả, tránh bê tông hóa tràn lan, đồng thời phát triển các chuỗi giá trị gia tăng của các đô thị nhỏ trong vùng đô thị lớn.
Tuy nhiên, trong nhiệm vụ này, nguồn lực thực hiện (nhất là trong trường hợp hạ tầng kỹ thuật) là một thách thức đối với các chính quyền đô thị. Do vậy, các đô thị cần trên cơ sở rà soát thực tiễn để tổng hợp nhu cầu chỉnh trang, tái thiết đô thị, xây dựng chương trình hành động cụ thể, có trọng tâm và khả năng thực hiện để đảm bảo tính khả thi.
d) Đổi mới mô hình phát triển đô thị tiến tới xanh, thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu
Việt Nam đã tham gia các cam kết quốc tế để cắt giảm phát thải CO2 và tiến tới phát triển tăng trưởng xanh, do vậy việc đổi mới mô hình phát triển đô thị cần được quan tâm để đạt được các mục tiêu giảm phát thải và tăng trưởng xanh trong lĩnh vực đô thị. Chính phủ đã ban hành nhiều đề án, chương trình, kế hoạch hành động quốc gia về phát triển đô thị tăng trưởng xanh, thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu, thời gian tới, các đô thị cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện, triển khai các kế hoạch nằm trong các chương trình, đề án này gồm Quyết định số 950/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030; Quyết định số 438/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 – 2030; Quyết định 84/QĐ-TTg về kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030
Xây dựng đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu, cần quan tâm đến các giải pháp tổng thể đến chi tiết, từ quy hoạch đô thị (chú ý chống lũ, lụt từ xa cho các đô thị; kết hợp quy hoạch tổng thể phát triển thủy lợi, thủy điện trên các lưu vực sông...) đến các giải pháp công trình và phi công trình. Từ việc đánh giá kịch bản biến đổi khí hậu, phân tích rủi ro đến lựa chọn kịch bản phát triển đô thị, từ quy hoạch quốc gia, vùng, tỉnh, đô thị đến giải quyết giải quyết vấn đề cục bộ trong từng đô thị như ngập úng, thoát nước, sạt trượt. Xây dựng đô thị thông minh cần chủ trọng 03 trụ cột đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 950 gồm quy hoạch thông minh, quản lý đô thị thông minh, cung cấp tiện ích đô thị thông minh trên nền tảng của cơ sở dữ liệu đô thị thông minh, và áp dụng khoa học kỹ thuật.
e) Phát huy mô hình quản lý đô thị tự chủ tại địa phương với mô hình chính quyền đô thị và nâng cao năng lực chuyên môn hóa trong quản lý phát triển đô thị
Các chính quyền đô thị ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi các kế hoạch phát triển đô thị, nhất là trong bối cảnh chủ trương phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương. Do vậy, phát huy mô hình quản lý đô thị tự chủ tại địa phương thông qua mô hình chính quyền đô thị, thúc đẩy vai trò làm chủ, chịu trách nhiệm và tự chủ của đô thị sẽ trở thành một xu hướng tất yếu. Đồng thời với xây dựng chính quyền là xây dựng năng lực chuyên môn cho đội ngũ quản lý phát triển đô thị để thực hiện chuyên môn hóa trong lĩnh vực phát triển đô thị.
f) Xây dựng thể chế và nguồn lực cho đô thị
Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đô thị quá và giải quyết những điểm nghẽn trên, các thể chế, chính sách phát triển đô thị đóng vai trò quan trọng, tạo hành lang pháp lý và sự minh bạch trong triển khai và thu hút sự tham gia của toàn xã hội trong phát triển đô thị. Hiện nay, các cơ chế, chính sách về phát triển đô thị đã có nhưng còn tản mát ở nhiều cấp độ và lĩnh vực khác nhau gây cản trở nhất định trong việc thống nhất nhận thức, hành động. Do vậy, thời gian tới rất cần thống nhất các quy định quản lý phát triển đô thị, giải quyết các vướng mắc, chồng chéo hiện nay liên quan đến vấn đề đất đai, nguồn lực...., đặc biệt sớm ban hành Luật điều chỉnh về quản lý phát triển đô thị là một bước đột phá về thể chế.
Hiện nay, trong bối cảnh phát huy vai trò đổi mới, sáng tạo của đô thị, khai thác nguồn lực từ đô thị để trở thành nội lực phát triển buộc các đô thị phải chủ động hơn trong các kế hoạch phát triển đô thị có hiệu quả. Tuy nhiên, thể chế, cơ chế hướng dẫn tạo nguồn lực cho đô thị còn khá hạn chế, đặc biệt đối với cơ chế tạo nguồn lực để đầu tư, chỉnh trang tái thiết hạ tầng đô thị lớn. Chính sách đổi đất lấy hạ tầng một thời gian dài đã tạo điều kiện phát triển hệ thống hạ tầng quốc gia, đô thị đang được dừng lại gây khó khăn cho nhiều đô thị. Các đô thị vừa và nhỏ vẫn chủ yếu dựa trên nguồn lực đất đai, kết quả là việc phát triển mở rộng tiếp tục tạo ra vòng tròn luẩn quẩn của việc thiếu nguồn lực và kém hiệu quả trong việc đầu tư lẫn chỉnh trang tái thiết hạ tầng sau đó. Trong khi các đô thị lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh không có đủ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu hạ tầng khung do phải chia sẻ nguồn thu với các đô thị khác trên cả nước do chính sách cào bằng trong phân bổ ngân sách cho các địa phương. Do đó, thời gian tới, cơ chế để tạo nguồn lực cho đô thị rất cần được khơi thông, một trong những cơ chế đó là khai thác hiệu quả từ không gian đô thị, chuyển đổi không gian đô thị, định giá và nắm bắt được giá trị gia tăng của đất đai trong quá trình đầu tư tái thiết, xây dựng thương hiệu đô thị,
4. Kết luận
Đô thị hóa là quá trình tất yếu khách quan. Phát triển đô thị là một quá trình lâu dài, đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn và năng lực kiểm soát cao, nhưng đồng thời cũng tạo ra giá trị gia tăng lớn và mang lại lợi ích kinh tế, xã hội vượt trội, thể hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia, mỗi khu vực trong từng giai đoạn. Những chính sách quốc gia về phát triển đô thị gần đây đã và đang tạo lợi thế, thời cơ cho phát triển đô thị Việt Nam. Tuy nhiên để để hướng tới phát triển đô thị Việt Nam bền vững, thịnh vượng cần sự chung tay của tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đối tượng cộng đồng trong xã hội.
Trần Thị Lan Anh
Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị