Các lý thuyết và kinh nghiệm lập quy hoạch đô thị của các nước phát triển đã áp dụng phương pháp lồng ghép, tích hợp đa ngành. Hệ thống quy hoạch của các nước thường gồm quy hoạch không gian lãnh thổ và quy hoạch hệ thống đô thị, trong đó quy hoạch không gian lãnh thổ xác định những định hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường, có tầm quan trọng cấp quốc gia và liên vùng; Quy hoạch đô thị là một quy trình ra quyết định mang tính tích hợp và có sự tham gia kết nối với một tầm nhìn chung, một chiến lược phát triển cho đô thị, hướng tới những mục tiêu ưu tiên và quy hoạch đô thị phải gắn với việc tổ chức thực hiện.
Xuất phát từ các nhu cầu thực tiễn, yêu cầu của hệ thống quy phạm pháp luật và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, cần nghiên cứu rà soát và đề xuất kết nối hệ thống quy hoạch, xác định các nội dung và phương pháp tích hợp quy hoạch ngành trong đồ án quy hoạch đô thị đổi mới, đảm bảo phù hợp với hệ thống quy hoạch hiện hành và phát triển phương pháp lập quy hoạch theo lý thuyết tiến bộ.
(Hình 1: Hệ thống quy hoạch Việt Nam trước năm 2017)
I. Hệ thống quy hoạch quốc gia và hiện trạng các quy hoạch ngành ở Việt Nam
1.1. Hệ thống các loại quy hoạch ở Việt Nam giai đoạn trước năm 2017
Hệ thống quy hoạch ở Việt Nam trước 2017: gồm 3 nhóm
- Nhóm I: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, gồm: (i) Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ; (ii) Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; (iii) Quy hoạch sản phẩm.
- Nhóm II: Quy hoạch xây dựng, gồm: (i) Quy hoạch xây dựng vùng, (ii) Quy hoạch xây dựng các khu chức năng đặc thù, (iii) Quy hoạch đô thị, (iv) Quy hoạch xây dựng nông thôn.
- Nhóm III: Quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản và quy hoạch bảo vệ môi trường.
1.2. Hệ thống các loại quy hoạch ở Việt Nam từ năm 2017
Hệ thống Quy hoạch quốc gia. Điều 5. Luật Quy hoạch năm 2017 đã xác định, hệ thống quy hoạch quốc gia gồm:
- Quy hoạch cấp quốc gia, gồm: Quy hoạch tổng thể quốc gia; Quy hoạch không gian biển quốc gia; Quy hoạch sử dụng đất quốc gia; Quy hoạch ngành quốc gia; Quy hoạch ngành quốc gia, gồm loại quy hoạch theo (Phụ lục 1) và 39 quy hoạch chuyên ngành kỹ thuật (Phụ lục 2)
- Quy hoạch vùng;
- Quy hoạch tỉnh;
- Quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
- Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn.
1.3. Đánh giá tổng hợp về cơ chế phối hợp lồng ghép của Quy hoạch đô thị trong hệ thống Quy hoạch quốc gia và các vấn đề cần giải quyết
a. Đánh giá những bất cập trong việc lồng ghép quy hoạch ngành và quy hoạch đô thị hiện nay.
- Về phương pháp: việc lồng ghép quy hoạch ngành và quy hoạch đô thị chỉ mang tính tổng hợp các ngành, điều chỉnh cho phù hợp với nhau chứ chưa mang tính tích hợp
- Về nội dung: Việc phối hợp với các ngành chủ yếu dừng ở việc cập nhật khớp nối các quy hoạch, kế hoạch ngành đã có vào nội dung quy hoạch đô thị chứ chưa thực sự cùng nhau tham gia để lập một quy hoạch đô thị tích hợp đa ngành, từ đó làm cơ sở để triển khai các kế hoạch chuyên ngành hướng tới mục tiêu, tầm nhìn chung của đô thị.
- Về quy trình: Quy hoạch đô thị lập trên cơ sở cập nhật các quy hoạch ngành đã có, lập phương án quy hoạch, sau đó xin ý kiến các ngành. Quy trình này sẽ không thể khai thác được tối đa kiến thức đa ngành để phát triển đô thị. Quy trình quy hoạch tích hợp cần sự thảo luận đa ngành, thống nhất xác định mục tiêu, tầm nhìn, sau đó xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển ngành hướng tới mục tiêu đã đề ra.
b. Phân tích mối quan hệ giữa quy hoạch đô thị với các loại quy hoạch khác trong hệ thống quy hoạch quốc gia sau năm 2017
- Quan hệ khống chế: Theo quy định của Luật Quy hoạch 2017: “Quy hoạch cấp trên lập trước là cơ sở để lập quy hoạch cấp dưới (Điều 6 - Luật Quy hoạch).”
- Quan hệ “phối hợp”: Quy hoạch đồng cấp phải phối hợp, liên kết hỗ trợ, cập nhật với nhau đảm bảo tính hệ thống và tính thống nhất giữa các lãnh thổ láng giềng cùng cấp.
- Quan hệ “điều chỉnh”: Quy hoạch cấp dưới có thể được lập trước khi chưa có quy hoạch cấp trên được duyệt nếu xét thất cần thiết.
Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn phải phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh.
c. Đánh giá tổng hợp
- Hệ thống quy hoạch quốc gia trước 2017 còn mang tính phân lập, thiếu sự phối hợp hài hòa và sự lồng ghép khách quan giữa các loại quy hoạch, nên không phát huy được tính khả thi, hiệu quả và tác dụng.
- Hệ thống quy hoạch quốc gia được thiết lập theo Luật Quy hoạch 2017 là tiền đề để xây dựng cơ chế phối hợp giữa các loại quy hoạch, tạo điều kiện để đổi mới thể chế quy hoạch đô thị dựa trên cơ chế phối hợp, lồng ghép với các loại quy hoạch lãnh thổ và vùng.
1.4. Các vấn đề cần giải quyết
- Xây dựng cơ sở khoa học đổi mới thể chế và nội dung phương pháp lập quy hoạch đô thị trong hệ thống quy hoạch quốc gia
- Làm chính xác vị trí, vai trò, chức năng và phạm vi giới hạn của quy hoạch đô thị trong hệ thống đô thị quốc gia.
- Đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình, sản phẩm, thiết kế quy hoạch đô thị thống nhất
- Đổi mới thể chế quy hoạch đô thị theo hướng thích hợp, liên ngành trong lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện, đánh giá và điều chỉnh quy hoạch.
*Nhận định
Luật Quy hoạch ra đời đã quy định hủy bỏ quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội và hệ thống các quy hoạch ngành cấp vùng và tỉnh, giữ lại và có điều chỉnh hệ thống quy hoạch ngành cấp quốc gia gồm 39 ngành. Đây là cơ hội để Nghiên cứu đổi mới công tác lập quy hoạch đô thị, trong đó việc tích hợp đa ngành sẽ bao gồm: (1) Quy hoạch đô thị đảm nhận nhiệm vụ của quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành cấp địa phương và (2) quy hoạch đô thị cụ thể hóa quy hoạch ngành quốc gia theo quy trình đổi mới, đảm bảo đánh giá được tổng hợp nhu cầu của các ngành xác định được yếu tố nổi trội và lĩnh vực ưu tiên, tạo được cơ chế tham gia đa ngành để cùng nhau xây dựng mục tiêu, tầm nhìn, ý tưởng chung cũng như cam kết thực hiện của các bên liên quan.
II. Hợp nhất quy hoạch chuyên ngành và quy hoạch đô thị nhằm xây dựng chiến lược phát triển tổng thể cho thành phố
2.1. Cơ cở pháp lý
Một trong các tác động qua lại quan trọng trong Luật quy hoạch có tác động trực tiếp đến quy hoạch đô thị nông thôn đó là khi Quy hoạch đô thị, nông thôn được đặt ở mức cuối cùng trong hệ thống quy hoạch quốc gia. Điều đó có nghĩa rằng, đối với một đô thị thì chỉ còn duy nhất quy hoạch đô thị là công cụ để chỉ đạo mọi chiến lược phát triển mang tính vĩ mô của đô thị đó.
Quy hoạch đô thị lúc này sẽ không chỉ đơn giản là hình thành lên một khung không gian đô thị nữa mà mang tính tổng hợp, tính đa ngành rất lớn. Quy hoạch đô thị lúc này không chỉ dừng lại ở các giải pháp mang tính kỹ thuật mà phải lồng ghép rất nhiều các yếu tố về kinh tế, xã hội để đáp ứng được yêu cầu của một bản chiến lược tổng thể cho phát triển một thành phố
Theo Điều 3 và Điều 6, yêu cầu của đồ án quy hoạch đô thị đã bao hàm các nội dung chuyên ngành HTXH, HTKT. Các nội dung hạ tầng kỹ thuật được thực hiện thành các bộ môn riêng (Điều 36); (Điều 18). Như vậy, tính tích hợp đa ngành đã thể hiện khá rõ nét trong quy định lập đồ án quy hoạch đô thị.
2.2. Cơ sở thực tiễn tại Việt Nam
a. Tính đa dạng của quy hoạch đô thị tại Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm quy hoạch đô thị thực chất là khái niệm về Quy hoạch xây dựng đô thị. Đây là việc tổ chức hoặc định hướng tổ chức không gian vùng, không gian đô thị và điểm dân cư, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống tại các vùng lãnh thổ. Nó cũng là việc đảm bảo kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích cộng đồng, đáp ứng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường (theo Quy chuẩn xây dựng Việt Nam, phần về quy hoạch xây dựng do Bộ Xây dựng ban hành). Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường, khi các bản quy hoạch được lập dựa trên phương pháp này được thông qua và áp dụng thì chúng rất thụ động, không đáp ứng được những biến đổi liên tục của thị trường bất động sản, nhất là tại các thành phố phát triển nhanh như Hà Nội và TP.HCM.
Trong thời gian vừa qua, số lượng các quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm được lập quá lớn cả ở trên phạm vi cả nước và cấp tỉnh. Trong mỗi kỳ quy hoạch, hàng trăm quy hoạch ngành, sản phẩm ở cấp cả nước được lập (có 268 quy hoạch ngành, sản phẩm được lập cho giai đoạn 2011-2020); có địa phương lập 82 quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm, trong đó riêng khu vực nông lâm ngư nghiệp lập 26 quy hoạch. Do có quá nhiều loại quy hoạch phát triển ngành dẫn đến có những khu vực đất đai vừa được quy hoạch phát triển khu du lịch, vừa quy hoạch xây dựng cảng biển và vừa quy hoạch khai thác khoáng sản, hoặc có những địa bàn vừa quy hoạch trồng mía, vừa quy hoạch trồng sắn nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học…
b. Xu thế về đa ngành trong quy hoạch đô thị
Từ những năm 1960, trước những đòi hỏi của phát triển đô thị, ngành quuy hoạch đã tiến lại gần khoa học xã hội. Sản phẩm của quy hoạch đô thị trở thành những bản đồ hoặc sơ đồ định hướng và những kèm theo đó là những thuyết minh thay vì đưa ra những bản vẽ thiết kế cụ thể chi tiết nhưng không có tính thực tiễn cao.
Chúng ta đều đồng ý rằng quy hoạch là một ngành khoa học dự báo, hoạch định sự phát triển, tạo cơ sở để các dự án cụ thể đi vào thực tiễn nên cần có những nghiên cứu KT-XH đồng bộ.
Chức năng kiến trúc trong quy hoạch chỉ là một chức năng vật thể trong cả quá trình thực hiện quy hoạch đa chức năng với sự tham gia của nhiều ngành chuyên môn. Các chức năng phi vật thể (phát triển kinh tế - xã hội) mới là linh hồn quyết định chiều hướng phát triển của cả đô thị. Vì vậy ngành quy hoạch cần thay đổi cách tiếp cận từ vật thể sang cách tiếp cận tổng hợp và cách tiếp cận hệ thống.
2.3. Các yêu cầu hợp nhất quy hoạch ngành và quy hoạch đô thị (quy hoạch tích hợp các quy hoạch ngành vào quy hoạch đô thị)
a. Khung pháp lý
Xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch đô thị
- Tiền đề xây dựng khung pháp lý mới về quy hoạch đô thị là Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 và sửa đổi bổ sung nội dung các Luật về Quy hoạch có liên quan theo phụ lục III.
- Kế thừa Luật Xây dựng 2014, Luật Quy hoạch đô thị 2009. Điều chỉnh, bổ sung chương II: Quy hoạch Xây dựng ở Luật Xây dựng và làm chính xác lại phạm vi điều chỉnh của Luật Xây dựng và các loại công trình xây dựng.
- Xây dựng mới “Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn” hướng tới tích hợp, đa ngành, đa chức năng
- Xây dựng Luật Kiến trúc mới theo quan điểm không chồng chéo với Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn và trọng tâm là hoạt động hành nghề Kiến trúc sư chuyên nghiệp.
Kế thừa, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và định mức kinh tế kỹ thuật về Quy hoạch đô thị theo hướng tích hợp phát triển bền vững.
Quán triệt và triển khai các chủ trương, chính sách, cơ chế, định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước phối hợp với “Tư tưởng phát triển bền vững” của thời đại và cập nhật hóa các mô hình Quy hoạch đô thị bền vững.
Hoàn thiện nội dung nghiên cứu xây dựng CDS và nhiệm vụ quy hoạch đô thị.
b. Các yêu cầu về chuyển biến đổi mới
- Phải chuyển đổi để đáp ứng được các yêu cầu về lồng ghép đa ngành đủ để hình thành một kế hoạch mang tính tổng thể, bao quát các lĩnh vực phát triển và quản lý đô thị;
- Phải chuyển đổi để đáp ứng được tính linh hoạt trong quy hoạch, đáp ứng được các biến đổi thường xuyên trong nền kinh tế thị trường;
- Phải gắn với công tác quản lý, kiểm soát xây dựng đô thị sau quy hoạch và các nội dung quản lý khác có thể là các vấn đề các phạm trù ngoài các hoạt động xây dựng thuần túy;
- Phải rút ngắn được quy trình, thời gian, quy hoạch mang tính mở để đáp ứng được các nhu cầu về đầu tư, phát triển. Tránh tình trạng phải trông chờ quy hoạch đủ các cấp độ mới được tiến hành đầu tư;
- Phải gắn chặt với các quy định, các thiết kế, các chính sách đặc biệt là lĩnh vực tài chính để đảm bảo bản quy hoạch có tính khả thi khi thực hiện;
- Tập trung xác định và giải quyết các vấn đề do nhà nước quản lý và đầu tư (đầu tư công) nhằm đảm bảo đô thị phát triển cân bằng, hài hòa, đảm bảo công bằng, an sinh xã hội
c. Định hướng khung quy hoạch đô thị và nông thôn
- Xác định, làm chính xác vị trí và vai trò của quy hoạch đô thị trong hệ thống quy hoạch quốc gia là loại quy hoạch duy nhất trong đô thị.
- Xây dựng hoàn chỉnh khung quy hoạch đô thị bao gồm:
+ Quy hoạch chung hoặc quy hoạch tổng thể đô thị và quy hoạch các khu chức năng đặc thù 20-25 năm; tỷ lệ 1/10.000-1/25.000.
+ Quy hoạch các phân khu đô thị, chủ yếu tập trung vào Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch cơ sở hạ tầng khung các phân khu và Quy chế quản lý quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000-1/5000.
+ Quy hoạch một số chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật và xã hội, áp dụng chủ yếu cho các thành phố rất lớn từ loại I trở lên.
+ Hoàn chỉnh nội dung và phương pháp chi tiết 1/500, áp dụng cho 03 đối tượng: (i) Khu đô thị phát triển theo dự án đầu tư xây dựng tập trung, do 01 chủ đầu tư chiến lược đảm nhiệm; (ii) Khu dân cư phát triển theo dự án do tư nhân đầu tư xây dựng trước khi chuyển quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, (iii) Các khu đô thị hiện hữu, do chính quyền đô thị làm chủ đầu tư xây dựng cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng làm cơ sở cấp giấy phép xây dựng cho các tổ chức, cá nhân xây dựng các công trình riêng lẻ, trên lô đất đã đăng ký địa chính theo quy hoạch.
- Xây dựng hoàn chỉnh khung quy hoạch nông thôn, bao gồm:
+ Quy hoạch tổng thể các huyện hoặc vùng nông lâm nghiệp chuyên môn tỷ lệ 1/10.000 cho giai đoạn 15-20 năm.
+ Quy hoạch chung các xã tỷ lệ 1/2000-1/5000.
+ Quy hoạch chi tiết các khu chức năng của xã tỷ lệ 1/500.
III. Giải pháp quy hoạch đô thị tích hợp
3.1. Các nguyên tắc phối hợp, lồng ghép giữa quy hoạch đô thị và quy hoạch ngành
- Cập nhật xu hướng phát triển của công tác quy hoạch của thế giới trong nền kinh tế thị trường theo xu thế hội nhập và toàn cầu hóa
- Tạo được sự đồng thuận cao
- Phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi từ một nước đang phát triển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả cao nhất trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam
- Ở cấp quốc gia: Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia làm nền tảng trên cơ sở tuân thủ quy hoạch Tổng thể Quốc gia,
- Ở cấp tỉnh: lấy hợp phần quy hoạch xây dựng trong quy hoạch Tỉnh làm nền tảng.
- Ở cấp đô thị: Lấy quy hoạch đô thị làm nền tảng duy nhất để lồng ghép, tích hợp trên cơ sở tuân thủ quy hoạch cấp Tỉnh, Vùng và Quốc gia.
(Hình 2: Mô hình tổng hợp đa ngành của QHXD)
3.2. Đề xuất quy trình lồng ghép đa ngành trong lập và thực hiện quy hoạch đô thị
a. Quy trình quy hoạch đô thị là một quy trình “vòng lặp” và là một quy trình mở và mang tính liên tục. Sản phẩm quy hoạch không bất biến mà được liên tục cập nhật, điều chỉnh theo các biến động của nền kinh tế thị trường và các thay đổi về chiến lược kinh tế xã hội từng giai đoạn. Kết thúc sản phẩm quy hoạch và chuyển sang bước tổ chức thực hiện quy hoạch cũng chính là bắt đầu bước đầu tiên của việc đánh giá, phản ánh, phản hồi về quy hoạch
Các bước bao gồm:
i. Giai đoạn xác định vấn đề (rà soát, đánh giá quy hoạch và xác định sự cần thiết lập quy hoạch, xác định chủ trương lập quy hoạch;
ii. Pháp lý hóa các vấn đề cần quy hoạch (lập nhiệm vụ quy hoạch)
iii. Lập và duyệt quy hoạch
+ Xác định chiến lược phát triển của đô thị
+ Thiết kế quy hoạch đô thị
+ Sự tham gia của các bên liên quan
+ Phê duyệt quy hoạch
iv. Thực hiện quy hoạch và lắng nghe các phản hồi
v. Quay lại bước 1 để hoàn thành một vòng lặp
b. Các bước lập quy hoạch đô thị lồng ghép
(Hình 3: Các bước lập đồ án quy hoạch đô thị theo mô hình đổi mới)
Trên đây là 13 bước cơ bản của công tác lập quy hoạch đô thị. Việc tích hợp đa ngành không nhất thiết phải nằm trên toàn bộ cả 13 bước triển khai mà có thể thực hiện ở các bước chính với theo từng giai đoạn như sau:
i. Giai đoạn xác định vấn đề (rà soát, đánh giá quy hoạch và xác định sự cần thiết lập quy hoạch, xác định chủ trương lập quy hoạch; Pháp lý hóa các vấn đề cần quy hoạch (tương đương B1, B2)
ii. Lập và xét duyệt nhiệm vụ quy hoạch
iii. Xác định chiến lược phát triển của đô thị (tương đương B3, B4)
+ Lập quy hoạch đô thị (tương đương B5-B12)
+ Thực hiện quy hoạch và lắng nghe các phản hồi, giám sát quy hoạch (Bước 12)
iv. Quay lại bước 1 để hoàn thành một vòng lặp.
(Hình 4: Sơ đồ mô hình lồng ghép đa ngành giai đoạn ra quyết định lập quy hoạch)
c. Đề xuất các giải pháp lồng ghép, tích hợp, đa ngành được diễn giải theo từng bước
i. Giai đoạn xác định vấn đề
- Ra quyết định cần lập quy hoạch
Các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện phát triển đô thị dẫn đến việc cần thiết phải lập quy hoạch đô thị luôn luôn xuất hiện thường xuyên. Cơ bản đây là các vấn đề từ nhiều ngành khác nhau. Có các yếu tố liên quan trực tiếp đến không gian, đất đai đô thị có các yếu tố liên quan gián tiếp. Do vậy quá trình lồng nghép đa ngành giai đoạn này là thường xuyên, liên tục thông qua các báo cáo định kỳ (hình 5)
(Hình 5: Sơ đồ mô hình lồng ghép đa ngành giai đoạn lập nhiệm vụ quy hoạch)
ii. Giai đoạn xác định chiến lược phát triển đô thị
Đây là giai đoạn mang tính quyết định của công tác lồng ghép đa ngành. Các mục tiêu phát triển ngành phải được bàn bạc, thương thảo, lồng ghép vào trong Chiến lược phát triển đô thị (CDS) tại bước 4 trong quy trình 13 bước. Các nội dung CDS là nội dung tổng hợp bao gồm các yếu tố vật thể, không gian thuần túy và các yếu tố phi vật thể. Đối với các ngành có thể cụ thể hóa bằng không gian thì CDS thể hiện mục tiêu thông qua các chỉ số phát triển ngành. Đối với các ngành không (khó) cụ thể hóa bằng không gian thì CDS thể hiện thông qua các định hướng chiến lược nhưng có hướng tới các thông số, chỉ số về không gian (hình 6)
(Hình 6: Quy trình lồng ghép đa ngành)
iii. Giai đoạn thiết kế quy hoạch đô thị và phê duyệt quy hoạch đô thị
Đây là giai đoạn mang tính cụ thể hóa lồng ghép đa ngành vào trong nội dung không gian với hai nội dung quan trọng đó là sử dụng đất, hạ tầng và môi trường đô thị. Giai đoạn này chủ yếu là các hoạt động kỹ thuật về quy hoạch. Các ngành này chủ yếu là các hoạt động kỹ thuật về quy hoạch. Các ngành tham gia mang tính giám sát.
Do quy hoạch đô thị là một quy hoạch tích hợp, đa ngành và có tính pháp lý cao nhất và duy nhất trong lãnh thổ đô thị, vì vậy sau khi kết thúc quy hoạch chung đô thị, các ngành và các bên liên quan hoàn toàn có thể xác định chính xác các dự án trọng điểm để triển khai, rút ngắn được thời gian như trước đây do mâu thuẫn với các quy hoạch ngành hay phải chờ các bước quy hoạch trung gian (quy hoạch phân khu) và gần như triệt tiêu các mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành với nhau (hình 7).
(Hình 7: Quy trình thiết kế và phê duyệt QHĐT)
iv. Giai đoạn thực hiện và phản hồi quy hoạch đô thị
Đây là giai đoạn cuối cùng của một chu trình quy hoạch đô thị là giai đoạn cụ thể hóa quy hoạch vào đầu tư phát triển đô thị. Tại giai đoạn này thực hiện của các ngàng căn cứ vào quy hoạch đô thị được duyệt nên về cơ bản là độc lập với nhau đảm bảo nguyên tắc tuân thủ quy hoạch được duyệt. Quá trình thực hiện quy hoạch đô thị sẽ nảy sinh các vấn đề do quy hoạch hoặc phát sinh các vấn đề mới sẽ được các ngành phản hồi lên cơ quan đầu mối và quy trình lại tiếp tục theo một vòng mới tùy mức độ quan trọng của vấn đề phát sinh (hình 8
(Hình 8: Quy trình thực hiện và phản hồi quy hoạch đô thị)
Lời kết
Qua mỗi giai đoạn phát triển của hệ thống quy hoạch và quản lý quy hoạch, hệ thống các khái niệm và nguyên tắc được đổi mới, thể chế hóa và thực hiện. Luật Quy hoạch ra đời đã có nhiều thay đổi chế hóa và thực hiện. Luật Quy hoạch ra đời đã có nhiều thay đổi về khái niệm và nguyên tắc lập quy hoạch, trong đó yếu tố đa ngành được thay thế yếu tố đơn ngành trong lập quy hoạch ngành trước đây. Xác định các nội dung và phương pháp tích hợp quy hoạch ngành trong đồ án Quy hoạch đô thị đổi mới, đảm bảo phù hợp với hệ thống quy hoạch hiện hành và phát triển phương pháp lập quy hoạch theo lý thuyết tiến bộ là yếu tố cốt lõi trong công tác lập quy hoạch theo tinh thần của Luật Quy hoạch.
Trong bối cảnh triển khai Luật Quy hoạch, việc tích hợp các quy hoạch ngành trong công tác lập quy hoạch trên các địa bàn lãnh thổ là yêu cầu bắt buộc. Đối với quy hoạch đô thị cần thiết phải nghiên cứu các giải pháp tích hợp quy hoạch của các ngành vào quy hoạch đô thị. Theo đó việc xây dựng các giải pháp cụ thể cho việc tích hợp quy hoạch ngành vào quy hoạch đô thị nhằm nâng cao tính toàn diện trong quản lý quy hoạch trong đô thị là vấn đề cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu Giải pháp quy hoạch đô thị tích hợp là cần thiết để phù hợp với tinh thần của Luật Quy hoạch.